Khi nói đến nguồn lực con người các nhà kinh tế thường hiểu đó là nguồn
nhân lực (Human Resources) ñược xem xét dưới 2 góc ñộ : Năng lực xã hội và tính
năng ñộng xã hội của con người. Năng lực xã hội baohàm tổng hòa về thể lực, trí
lực, nhân cách của con người (lao ñộng) của một quốc gia, ñáp ứng với một cơ cấu
nhất ñịnh của con người do nền kinh tế - xã hội ñòihỏi. Nguồn nhân lực là ở trạng
thái tĩnh, mặc dù nguồn nhân lực luôn luôn ñược phát triển. Nguồn nhân lực ñó phải
ñược chuyển sang trạng thái ñộng, tức là ñược phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu
quả, nghĩa là, phải làm thế nào ñể chuyển nguồn lựccon người dưới dạng tiềm năng
ñó thành “Vốn con người, vốn nhân lực” (Human Capital).
1
Khái niệm vốn con người (Human Capital) ñã ñược kinh tế gia Adam Smith
ñề cập ñến trong tác phẩm The Wealth of Nations, vào cuối thế kỷ 18. Lý thuyết vốn
con người ñược Gary Becker, giáo sư ðại học Chicago, giải Nobel kinh tế 1992,
khai triển vào năm 1962. Vốn con người ñược ñịnh nghĩa như tập hợp những năng
lực sản xuất mà một cá nhân thu ñược nhờ tích luỹ những hiểu biết tổng quát hay
ñặc thù, những kỹ năng và sự thành thạo, v.v. Khái niệm “vốn” diễn tả ý niệm một
dự trữ phi vật thể quy cho một người, có thể tích luỹ và hao mòn.
2
Cung lao ñộng của con người không chỉ ñơn thuần là việc góp mặt trên thị
trường lao ñộng mà còn bao gồm các kỹ năng. Những kỹ năng này con người thu
ñược từ khả năng bẩm sinh của mình, những gì con người ñược ñào tạo và kinh
nghiệm bạn ñã trải qua. Vốn con người có ñược từ giáo dục và ñào tạo nghề (dạy
trực tiếp hay vừa làm vừa học). ðầu tư vào vốn con người là bất kỳ nguồn lực nào
(bao gồm cả thời gian) dành ñể nâng cao năng suất làm việc của con người trong ñó
bao gồm cả việc ñầu tư vào sức khỏe.
Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade
Organization = WTO) vừa là một cơ hội, nhưng ñồng thời cũng vừa phải ñối diện
với những thách thức thời ñại của mô thức “Văn Hóa Kinh Tế Thị Trường”.
11 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2686 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan niệm về vốn nhân lực và thương mại hóa giáo dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-1-
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM KYÕ THUAÄT TP. HCM
-----------------
TRAÀN HUY CÖÔØNG
QUAN NIEÄM VEÀ VOÁN NHAÂN LÖÏC VAØ
THÖÔNG MAÏI HOÙA GIAÙO DUÏC
(TIEÅU LUAÄN MOÂN HOÏC “KINH TEÁ HOÏC GIAÙO DUÏC”)
TP. HCM - 2006
-2-
PHAÀN 1
“QUAN NIEÄM VEÀ VOÁN NHAÂN LÖÏC (HUMAN CAPITAL) VAØ
PHAÙT TRIEÅN NGÖÔØI. VAI TROØ CUÛA VOÁN NHAÂN LÖÏC VAØ VOÁN XAÕ
HOÄI TRONG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ, XAÕ HOÄI. BAÏN SUY NGHÓ GÌ VEÀ
VOÁN NHAÂN LÖÏC CUÛA VIEÄT NAM HIEÄN NAY.”
Khi nói ñến nguồn lực con người các nhà kinh tế thường hiểu ñó là nguồn
nhân lực (Human Resources) ñược xem xét dưới 2 góc ñộ : Năng lực xã hội và tính
năng ñộng xã hội của con người. Năng lực xã hội bao hàm tổng hòa về thể lực, trí
lực, nhân cách của con người (lao ñộng) của một quốc gia, ñáp ứng với một cơ cấu
nhất ñịnh của con người do nền kinh tế - xã hội ñòi hỏi. Nguồn nhân lực là ở trạng
thái tĩnh, mặc dù nguồn nhân lực luôn luôn ñược phát triển. Nguồn nhân lực ñó phải
ñược chuyển sang trạng thái ñộng, tức là ñược phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu
quả, nghĩa là, phải làm thế nào ñể chuyển nguồn lực con người dưới dạng tiềm năng
ñó thành “Vốn con người, vốn nhân lực” (Human Capital).1
Khái niệm vốn con người (Human Capital) ñã ñược kinh tế gia Adam Smith
ñề cập ñến trong tác phẩm The Wealth of Nations, vào cuối thế kỷ 18. Lý thuyết vốn
con người ñược Gary Becker, giáo sư ðại học Chicago, giải Nobel kinh tế 1992,
khai triển vào năm 1962. Vốn con người ñược ñịnh nghĩa như tập hợp những năng
lực sản xuất mà một cá nhân thu ñược nhờ tích luỹ những hiểu biết tổng quát hay
ñặc thù, những kỹ năng và sự thành thạo, v.v... Khái niệm “vốn” diễn tả ý niệm một
dự trữ phi vật thể quy cho một người, có thể tích luỹ và hao mòn.2
Cung lao ñộng của con người không chỉ ñơn thuần là việc góp mặt trên thị
trường lao ñộng mà còn bao gồm các kỹ năng. Những kỹ năng này con người thu
ñược từ khả năng bẩm sinh của mình, những gì con người ñược ñào tạo và kinh
nghiệm bạn ñã trải qua. Vốn con người có ñược từ giáo dục và ñào tạo nghề (dạy
trực tiếp hay vừa làm vừa học). ðầu tư vào vốn con người là bất kỳ nguồn lực nào
(bao gồm cả thời gian) dành ñể nâng cao năng suất làm việc của con người trong ñó
bao gồm cả việc ñầu tư vào sức khỏe.
Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade
Organization = WTO) vừa là một cơ hội, nhưng ñồng thời cũng vừa phải ñối diện
với những thách thức thời ñại của mô thức “Văn Hóa Kinh Tế Thị Trường”.
Khi nói về vốn liếng, người ta thường nghĩ ngay ñến những giá trị vật chất cụ
thể mà người sở hữu có thể nhìn thấy, cất giữ hay cân, ño, ñong, ñếm ñược. Còn
những giá trị phi vật thể, ñặc biệt là những giá trị tinh thần tạo nên bản sắc ñặc thù
của một quốc gia, một xã hội, một dòng họ hay một con người ñược coi như những
“bẩm tính trời sinh”, bị chìm khuất sau biên cương và hào lũy truyền ñời của lịch sử
và văn hóa.3
1 Boä Giaùo Duïc vaø Ñaøo Taïo, PHAÙT TRIEÅN NGUOÀN LÖÏC CON NGÖÔØI, Haø Noäi, 2004 – Trang 1.
2
3
-3-
Từ trong nếp nghĩ theo thói quen và cảm tính, Vốn xã hội thường bị xem hay
ñược xem là một hệ thống giá trị mặc nhiên, mỗi người sinh ra là ñã có nó như khí
trời, thiên nhiên cây cỏ. Thật ra, nguồn vốn to lớn và quan trọng bậc nhất là Vốn xã
hội. Trong cụm từ “Vốn xã hội” ñã ngầm chứa hai thành tố là: Vốn (capital) + Xã
Hội (social). Nói một cách cụ thể hơn về Vốn Xã Hội, Cohen và Prusak (2001) ñịnh
nghĩa: “Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa những con người
với nhau: Sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau, và sự chia sẻ những giá trị ñạo ñức,
phong cách nối kết những thành viên trong các tập ñoàn, các cộng ñồng lại với nhau
làm cho việc phối hợp hành ñộng có khả năng thực hiện ñược”.
Vấn ñề Vốn xã hội ñã ñược nhắc nhở, nghiên cứu, phát triển và áp dụng một
cách có hệ thống và rộng khắp trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, xã hội, tâm lý…
tại Mỹ, các nước phương Tây và các quốc gia kỹ nghệ trên toàn thế giới. Năm 1961,
Jane Jacob phân tích và thảo luận về vốn xã hội trong mối tương quan của ñời sống
ở thành phố. Năm 1983, Pierre Bourdieu soạn hẳn ra một lý thuyết riêng về Vốn xã
hội. James S. Coleman phát triển lý thuyết thành một nội dung giáo dục về nguồn
Vốn xã hội. Ý tưởng nầy ñã ñược một tổ chức tài chính lớn nhất hành tinh là Ngân
Hàng Thế Giới sử dụng như một ý kiến rất hữu ích về mặt tổ chức. Ngân Hàng Thế
Giới xác ñịnh rằng: “ Bằng chứng mỗi ngày một nhiều chỉ rõ rằng, sự liên kết xã hội
là rất thiết yếu cho các xã hội trong việc làm giàu mạnh kinh tế và cho việc phát
triển tiến lên không ngừng”.
Trong khi Vốn vật chất (physical capital) nói ñến các vật thể hiện hữu và Vốn
nhân sinh (human capital) nói ñến tài sản cá nhân thì Vốn xã hội nói ñến liên hệ nối
kết giữa những con người. ðấy là mạng lưới xã hội với những tiêu chuẩn giao dịch
qua lại trong sự tin tưởng lẫn nhau và ñồng thời ñó cũng là ñạo lý cư xử giữa người
và người trong xã hội. Theo ñịnh nghĩa của Ngân Hàng Thế Giới thì Vốn xã hội là
những gì liên quan ñến các cơ sở, các mối quan hệ và những giá trị truyền thống.
Tất cả cùng hợp sức tạo nên chất lượng và số lượng của thành phẩm làm nên bởi sự
tương giao hợp tác trong xã hội… Vốn xã hội không phải chỉ ñơn thuần là sự tổng
hợp những khối lượng vật chất của xã hội mà là chất keo làm dính chặt những khối
lượng tài sản xã hội nầy lại với nhau.
Như vậy, Vốn xã hội chính là con người. Trong khi con người lại chính là sản
phẩm của một hoàn cảnh xã hội hiện hữu và phát triển trong một hoàn cảnh kinh tế,
một bối cảnh lịch sử, một truyền thống văn hóa cụ thể nào ñó.
Ngày 24 tháng 4 năm 2006 vừa qua, Bill Gates, chủ nhân công ty Microsoft và
cũng là người giàu nhất thế giới với gia tài xấp xỉ 53 tỷ ñô la Mỹ, ñến thăm Việt
Nam. Nhân vật nầy ñã ñược giới trẻ Việt Nam cả nước ñặc biệt quan tâm theo dõi.
ðã có người tự hỏi: “Nếu Bill Gates sinh ra tại Việt Nam hay một nơi nào ñó không
phải là Mỹ thì liệu một ‘Bill Gates hạt giống’ có khả năng trở thành một Bill Gates
thành công lẫy lừng như hôm nay không? Tuy ñây chỉ là câu hỏi giả ñịnh, nhưng
câu trả lời dĩ nhiên là “không!” và câu hỏi tiếp sẽ là “Tại sao?” Câu trả lời ñơn giản
nhất sẽ là: “Vì Mỹ khác, ta khác. Mỹ có nhiều phương tiện kinh doanh và ñiều kiện
thuận lợi nghiên cứu kỹ thuật và tham khảo thị trường mà ta không có...” Thế thì có
người lại hỏi, một nhân vật Mỹ nổi tiếng khác cũng ñã ñến thăm Việt Nam, cựu
tổng thống Mỹ Bill Clinton, có một người em trai cùng cha khác mẹ, lớn lên trong
cùng một mái ấm gia ñình, suýt soát tuổi nhau là Roger Clinton lại trở thành một
-4-
tay lêu lổng, bị tù tội vì ghiền xì ke, ma túy. Như vậy có hai Clintons trái ngược
nhau trong cùng một hoàn cảnh. Clinton anh là vốn xã hội ñáng quý và Clinton em
là cục nợ xã hội ñáng thương hại.
Trên ñây là thí dụ cụ thể về mối tương quan và sự tác ñộng qua lại giữa con
người và hoàn cảnh. ðây là cả một sự tương tác về cả ba mặt: Vật chất, tinh thần,
hoàn cảnh riêng, chung. Bởi vậy, phương pháp luận cũng như dữ kiện về các mặt
nhân sinh và môi trường xã hội thường là những ñối tượng rất phức tạp trong việc
ño lường hay phân tích Nguồn vốn xã hội.
Các nhà nghiên cứu phải lưu ý ñến ba ñịnh mức của Vốn xã hội: (1) Mức ñộ
Vốn xã hội vi mô (micro-level social capital), (2) Mức ñộ Vốn xã hội trung mô
(Meso-level social capital), và (3) Mức ñộ Vốn xã hội vĩ mô (macro-level social
capital). Ba ñịnh mức nầy liên quan ñến: (1) Cá nhân, (2) Gia ñình, trường học, cơ
quan, ñoàn thể, xí nghiệp, và (3) Xã hội, ñất nước và toàn cầu. Mối liên hệ hữu cơ
là: (1) Nếu cá nhân không ñược chuẩn bị kỹ càng; (2) Nếu nghiệp vụ không ñược
ñào tạo, huấn luyện nghiêm túc; (3) Kết quả sẽ tạo ra là những thành viên xã hội có
chất lượng nghèo nàn và hệ quả tất yếu là sẽ làm cho nguồn vốn xã hội suy thoái
hay khánh tận.
Công trình nghiên cứu về Vốn xã hội gần ñây nhất của Robert D. Putnam
(1993; 2000) nhấn mạnh về sự hợp tác hai chiều và nhiều chiều của các thành viên
trong xã hội. Ông cho rằng sự hợp tác và chia sẻ giữa các thành viên xã hội với
nhau là yếu tố quan trọng hàng ñầu trong việc xây dựng vốn xã hội. Từ ñó, Putnam
cũng báo ñộng nguy cơ về sự xuống dốc của nguồn vốn xã hội tại Mỹ. Nguyên nhân
chính là vì chủ nghĩa cá nhân (individualism) ngày một chiếm thế mạnh và trẻ em
chỉ sống với cha hay mẹ một mình do tình trạng ly dị gia tăng làm cho tinh thần hợp
tác xã hội yếu dần.
Từ ñó, nhìn lại Vốn xã hội Việt Nam, cảm nhận tức thời trước khi ñưa lên bàn
cân tính toán là nước ta và dân ta có một nguồn vốn xã hội phong phú ñược tích lũy
qua “bốn nghìn năm văn hiến”. Nếu ñem các tiêu chí ñiển hình nhất của khái niệm
vốn xã hội cơ bản như truyền thống ñạo lý, phong cách xử sự hợp tác làm ăn
nghiêm túc, ñáng tin cậy, giàu tinh thần hợp tác và chia sẻ, có tay nghề vững vàng
trong lĩnh vực chuyên môn… thì ñất nước và con người Việt Nam xưa nay không
thiếu. Nguồn vốn xã hội Việt Nam, do ñó, sẽ rất nhiều. Nếu không có nguồn vốn xã
hội giàu có làm căn bản cho sự sống còn và vươn lên của ñất nước và con người
Việt Nam thì có lẽ nước Việt Nam ñã bị ñồng hóa hay biến mất giữa những thế lực
xâm lăng cường bạo ñến từ mọi phía trong những nghìn năm qua. Nhưng nếu xin
tạm gác lại niềm tự hào dân tộc ñể nhìn vào thực tiễn cuộc sống của dân ta trong
dòng sinh mệnh của ñất nước và trong bối cảnh lịch sử thế giới thì ta thấy ñược
những gì?
Nguồn vốn quan trọng ñó bây giờ ñang phong phú, cạn kiệt hay vẫn còn dự
trữ tràn ñầy dưới dạng tiềm năng? Ba mươi năm qua sống dưới chế ñộ mới, không
còn chiến tranh, không còn phân chia Nam Bắc… nguồn vốn xã hội Việt Nam ñang
ở mức ñộ nào? Theo Russel Landsfield (2002), các tiêu chí “quan sát tạm thời” ñể
nhìn vào mức ñộ Nguồn vốn xã hội của một xã hội là : (1) Thái ñộ xử thế công cộng
(public behavior), (2) Sự ñáng tin cậy trong quan hệ mua bán ñổi chác hàng ngày
-5-
(trustworthiness in daily exchange and business), (3) Niềm tin trong sự tương tác
giữa quần chúng và lãnh ñạo (mutual trust between authority and people), (4) Trật
tự và an ninh công cộng (order and safety in public). Ví thử có một người như
Russel mới ñến Việt Nam lần ñầu, anh ta dùng những “thang ñiểm” vừa nêu ñể
“quan sát tạm thời” xã hội Việt Nam thì người ñó sẽ thấy nguồn vốn xã hội Việt
Nam hiện nay ñang ở vào mức ñộ nào?
Căn bản ñể tạo ra nguồn vốn xã hội là con người. Phẩm chất của con người
Việt Nam không thua sút bất cứ dân tộc nào trong cùng hoàn cảnh ñịa dư và lịch sử.
Trong những trường ñại học Mỹ mà người viết bài nầy có dịp giảng dạy, sự thể hiện
rất rõ ràng là sinh viên Việt Nam, thuộc cả hai thế hệ trẻ từ quê nhà sang du học hay
sinh ra và lớn lên tại Mỹ ñều không thua kém mảy may sinh viên của bất cứ nước
nào, nhất là ñối với sinh viên châu Á như Nhật, Trung Quốc, ðại Hàn, Singapore…
Thế nhưng trong thực tế ñất nước, về mặt chuyên môn và khả năng khai phá, sáng
tạo trong khoa học, kỹ thuật ñể tạo ra những sản phẩm kỹ nghệ hiện ñại, chúng ta
vẫn còn bị giới hạn và tụt hậu so với họ? Vốn xã hội hiện nay của ñất nước ta có ñủ
phẩm chất và lượng dự trữ ñể ñáp ứng ñược nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường hay không? ðấy vẫn còn là những vấn ñề cần ñược nghiên cứu một cách
khách quan và khoa học mới có thể tìm ra câu trả lời thích ñáng.
Vốn xã hội là một khái niệm tương ñối còn mới mẽ trong sinh hoạt kinh tế
ñậm tính truyền thống và kế thừa của người Việt chúng ta. Khi nói về nguồn vốn,
người ta quen nói ñến nguồn vốn vật chất hữu hình và cụ thể (tangible). Còn Nguồn
vốn xã hội là một giá trị phi vật thể (intangible) nên người ta mơ hồ thấy nó “ở ñâu
ñó” qua những biểu hiện “tài năng” cá nhân có tính chất tiểu xảo và tiểu thương
theo kiểu: “nói dẽo quẹo như mẹo con buôn…”! Lenkowsky (2000) ñã chứng minh
rằng xã hội càng kém phát triển, sức mạnh kinh tế càng yếu thì nguồn vốn xã hội
càng dễ bị quên lãng. Nguồn vốn xã hội là một tiến trình hình thành và ñầu tư lâu
dài chứ không xuất hiện cụ thể và nhanh chóng trong ñời sống như “mì ăn liền”.
Tuy nhiên, Putnam cũng ñưa ra một “kính chiếu yêu” ñể nhìn vào và nhận biết
những vùng ñang có nguồn vốn xã hội cao hơn… khi “những nơi công cộng sạch sẽ
hơn, con người thân thiện, ñáng tin cậy hơn, và ñường sá an toàn hơn.
Sự phát triển kinh tế thường ñi song song với sự cải thiện ñời sống về mặt vật
chất. Nhưng một vùng ñất nào ñó rất giàu có về vật chất thuần túy mà thiếu vắng
vốn xã hội. Nghĩa là thiếu ñi chiều sâu văn hóa và chiều cao nhân văn thì ñấy cũng
chỉ là một hình thức phồn vinh thô thiển mà người xưa gọi là “trọc phú” (thanh bần
hơn trọc phú) hay theo mắt nhìn của quần chúng bình dân là “giàu mà không sang”.
Hình ảnh của những vùng ñất giàu vốn vật chất mà nghèo vốn xã hội thường xuất
hiện trong những vùng kinh tế “nước nổi”. Nếu có dịp ghé ñến những vùng kinh tế
quanh các khu quân sự, hầm mõ hay hảng xưởng khai thác kinh doanh tạm thời ở
Phi Luật Tân, Panama, Trung ñông, Nam Phi… sẽ thấy rõ hình ảnh “giàu mà không
sang” nầy xuất hiện nhan nhản. Theo Sennett, R. (1998) thì “Dấu hiệu báo ñộng ñầu
tiên của sự suy thoái nguồn vốn xã hội là số người phát giàu mà không làm gì cả
hay kiếm lợi bất chính một cách công khai càng lúc càng ñông và khoảng cách giữa
những người nghèo lương thiện và những người giàu gian manh mỗi ngày một lớn”.
Các nhà nghiên cứu về nguồn vốn xã hội trong tương quan kinh tế ñều ñồng ý
với nhau rằng, một nền kinh tế lành mạnh trong một ñất nước có kỷ cương và văn
-6-
hiến không thể nào thiếu vắng nguồn vốn xã hội. Friedland (2003) ñã nêu dẫn
trường hợp các nước châu Mỹ La Tinh và sự èo uột của vốn xã hội. Giới lãnh ñạo
và thân hào nhân sĩ trong vùng thường vinh danh tinh thần ñịa phương và lòng tự
hào nhân chủng một cách quá bảo thủ và cực ñoan ñến ñộ lơ là không quan tâm
ñúng mức ñến sự vun ñúc, nuôi dưỡng và phát triển nguồn vốn xã hội. Hậu quả là
sự thiếu hợp tác giữa những thành viên xã hội và các thế lực ñầu tư ñã ñưa ñến quan
hệ một chiều và dẫn ñến chỗ vốn xã hội bị phá sản. Các nhà kinh doanh ñầu tư nản
lòng lui bước. Thay vì hợp tác song phương trong tinh thần ngay thẳng, bình ñẳng
và danh dự thì lại biến tướng thành quan hệ “ñút” (bribe) và “ñớp” (being bribed)
trong mối quan hệ của hối lộ và tham nhũng. Kết quả là hơn một thế kỷ qua, các
nước nghèo vẫn nghèo. Dân chúng vẫn lầm than; nền kinh tế các nước trong vùng
rất giàu tài nguyên nhưng vẫn kiệt quệ vì giới tài phiệt sử dụng nhân lực và tài
nguyên ñất nước ñể làm giàu cho riêng cá nhân, gia ñình và dòng họ của mình rồi
tìm cách chuyển tiền của và gửi con cháu của mình ra nước ngoài du học và lập
nghiệp.
Kẻ thù dai dẳng nhất của quá trình tích lũy, phát triển Nguồn vốn xã hội là
tham nhũng. Bởi vậy, Vốn xã hội và tham nhũng có mối quan hệ nghịch chiều với
nhau: Nạn tham nhũng càng bành trướng, vốn xã hội càng co lại. Khi tham nhũng
trở thành “ñạo hành xử” hàng ngày thì cũng là lúc vốn xã hội ñang trên ñà phá sản.
Nếu chỉ có ánh sáng mới có khả năng quét sạch hay ñuổi dần bóng tối thì cũng
tương tự như thế, Vốn xã hội ñược tích lũy càng cao, nạn tham nhũng càng có hy
vọng bị ñẩy lùi dần vào quá khứ. Thử nhìn lại Vốn xã hội Việt Nam trong tương
quan nguồn vốn xã hội của thế giới, chúng ta mới thấy rõ ñược ñâu là thế mạnh và
thế yếu của mình. Nhìn rõ mình không phải ñể thỏa mãn hay nản lòng dễ dãi nhất
thời mà ñể cầu tiến bộ; ñể sửa ñổi và ñiều chỉnh kịp thời trước sự ñòi hỏi như một
xu thế tất yếu của thời ñại toàn cầu hóa. Sẽ không bao giờ muộn màng, cũng như
chẳng bao giờ quá sớm ñể gây vốn xã hội, vì vốn xã hội là xương sống của ñời sống
kinh tế và nhân văn cho ñất nước hôm nay và cho thế hệ mai sau.
Giáo sư Phạm Tất Dong ñã nhận ñịnh “Chất lượng giáo dục, cả ở hệ phổ thông
lẫn hệ ñại học của nước ta là một vấn ñề cần ñược quan tâm hàng ñầu. Những cuộc
tranh luận kéo dài về tình hình giáo dục trên báo chí nhiều tháng qua thường tập
trung vào ñánh giá, phê bình tình trạng kém chất lượng giáo dục. Vấn ñề này quá
lớn, ñòi hỏi phải có sự phối hợp nghiên cứu liên ngành giáo dục học, tâm lý học,
kinh tế học…1
1 Boä Giaùo Duïc vaø Ñaøo Taïo, TOAØN CAÀU HOÙA VAØ SÖÏ HOÄI NHAÄP CUÛA GIAÙO DUÏC, 2005 – trang 13
-7-
PHAÀN 2
“TRONG CUỘC THẢO LUẬN HIỆN NAY, CÓ Ý KIẾN CHO RẰNG
GIÁO DỤC CŨNG LÀ MỘT LOẠI HÀNG HÓA, HOẶC CẦN THƯƠNG
MẠI HÓA GIÁO DỤC ? BẠN CÓ TÁN THÀNH KHÔNG ?”
Thời gian gần ñây trong nước ñã nảy ra nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn
ñề giáo dục là hàng hóa, mà thực chất là thị trường hóa, thương mại hóa giáo
dục. Trước ñây ñã có một thời rộ lên chuyện kinh tế tri thức, ñược chào ñón như cơ
hội nghìn vàng ñể ñi tắt ñón ñầu, ñưa ñất nước mau chóng vươn lên giàu có, thịnh
vượng, nhưng rồi, sau những rạo rực ban ñầu và nhiều mơ mộng trên mây, khi trở
về thực tại, mọi sự lại lắng xuống, im ắng một cách dễ sợ, mặc cho giáo dục, khoa
học là những thứ cốt tử trong kinh tế tri thức cứ tụt hậu dài dài. Nay lại ñến lượt
chuyện tự do hóa giáo dục ñại học ñược coi như phép màu có khả năng cứu nền ñại
học của ta giống như “khoán mười” ñã cứu nông nghiệp trước ñây vậy. Dù hưởng
ứng hay phản ñối ý kiến này cũng nên thấy ñây là vấn ñề hệ trọng, không thể dựa
theo cảm tính hời hợt ñể xét ñoán mà cần bình tĩnh, xem xét nhiều mặt một cách
nghiêm túc mới có thể có quyết sách ñúng ñắn, thích hợp.1
Trong khi ở nước ta giáo dục ñại học ì ạch từng bước nhọc nhằn, thì khắp nơi
trên thế giới các ñại học ñang trải qua những biến ñộng sâu sắc chưa từng có ñể
thích ứng với toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế quyết liệt.
Cộng ñồng Châu Âu, Nhật bản, và ngay cả một vài nước ASEAN, ñang nỗ lực
cải tổ GDðH nhằm tăng hiệu quả hoạt ñộng của các ñại học, gắn kết ñại học chặt
chẽ hơn với doanh nghiệp, trao quyền tự chủ rộng rãi và tự chịu trách nhiệm cho các
ñại học. Các nước trong Cộng ñồng Châu Âu tổ chức lại nền ñại học của họ theo
những nguyên tắc ñã thống nhất trong tuyên bố chung Bologna năm 1999 (chẳng
hạn, tổ chức lại ñại học theo khung 3-5-8 cho tương ñồng với ñại học Mỹ). Bên
cạnh những trường bình thường, người ta ñặt trọng tâm xây dựng những trung tâm
xuất sắc, nhằm tăng uy tín và sức hút ñể cạnh tranh với các ñại học Mỹ và giảm bớt,
tiến ñến chấm dứt dòng chảy chất xám sang Mỹ. Theo hướng ñưa các phương pháp
quản lý trong khu vực doanh nghịệp tư nhân vào khu vực giáo dục ñại học, các ñại
học ñược tăng quyền tự trị về mọi mặt, kể cả về tài chính và nhân sự, ñể hoạt ñộng
gần như một doanh nghiệp, tuy vẫn do Nhà nước cấp kinh phí nhưng có thể tự tìm
thêm những nguồn tài chính bổ sung khác mhằm buộc các ñại học muốn tồn tại và
phát triển phải quan tâm nhiều hơn nữa ñến hiệu quả và chất lượng.
Ở Châu Âu rất ít ñại học tư. Ở Nhật và Mỹ ñại học tư nhiều hơn, nhưng ỏ Mỹ
cũng chỉ chiếm khoảng 23% (về số sinh viên). Hầu hết các ñại học tư ở các nước
ñều là tổ chức vô vị lợi (non-profit), không có cổ phần, không mưu tìm lợi nhuận,
cho nên cũng ñược Nhà Nước cấp một phần kinh phí. Dĩ nhiên họ ñược tự chủ hoàn
toàn, như vậy, sau khi cải tổ, các ñại học công sẽ chỉ còn khác các ñại học tư chủ
yếu ở chỗ vẫn do Nhà Nước quản lý, dù sự quản lý này ñã ñược nới lỏng rất nhiều
(như Hiệu trưởng vẫn do chính quyền bổ nhiệm). Vì thế cũng có khi sự cải tổ này
1
-8-
ñược gọi là tư thục hóa (privatisation), hay nửa tư thục hóa (semiprivatisation), dù
không hề có chuyện cổ phần hóa hay bán lại các ñại học công cho tư nhân. Ở Mỹ,
xu thế tư thục hóa kiểu ñó cũng ñã bắt ñầu: năm 2004, ñã có vài ñại học công lâu
ñời (như ñại học Virginia, ñại học William and Mary, Virginia Tech) xin hưởng quy
chế tự trị giống như ñại học tư, và ñể ñổi lại họ chịu rút bớt kinh phí tài trợ của Nhà
Nước.
Do ñâu có trào lưu tự do hóa giáo dục ? Có mấy nguyên nhân dẫn ñến trào lưu
này : 1. Sự gia tăng mạnh số sinh viên ñại học, khiến các ñại học từ chỗ chỉ dành
cho số ít ñã chuyển thành cho số ñông.