Tiểu luận Quy chế thành viên của liên hợp quốc

Vào thời điểm thành lập Liên Hợp Quốc năm 1945, số lượng thành viên của Liên Hợp Quốc là 51 thành viên. Hiện nay, Liên Hợp Quốc có tất cả 192 quốc gia thành viên, là tổ chức quốc tế lớn nhất trên thế giới. Sự phát triển về số lượng thành viên của Liên Hợp Quốc chủ yếu là do quá trình phi thực dân hóa và sự tan rã của Liên Xô và Nam Tư. The Charter of the United Nations divides members into two classesoriginal members and elected members. Article 3 states that “The original Members of the United Nations shall be the States which, having participated in the United Nations Conference on International Organization at San Francisco, or having previously signed the Declaration by United Nations of 1 January 1942, sign the present Charter and ratify it in accordance with Article 110.” Hiến chương Liên Hợp Quốc chia các thành viên Liên Hợp Quốc thành hai loại: các thành viên sáng lập và các thành viên gia nhập. Điều 3 quy định, “Các thành viên đầu tiên của Liên Hợp Quốc là những quốc gia đã tham gia Hội nghị Liên Hợp Quốc về Tổ chức quốc tế tại San Francisco hoặc đã từng ký kết Tuyên bố Liên Hợp Quốc vào 1/1/1942, nay ký kết bản Hiến chương này và phê chuẩn nó theo điều 110”. Các thành viên gia nhập sau là các quốc gia gia nhập Liên Hợp Quốc sau thời điểm trên và phải đáp ứng các điều kiện của điều 4, khoản 1 Hiến chương Liên Hợp Quốc.

pdf11 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2410 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy chế thành viên của liên hợp quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN QUY CHẾ THÀNH VIÊN CỦA LIÊN HỢP QUỐC I- Giới thiệu chung Vào thời điểm thành lập Liên Hợp Quốc năm 1945, số lượng thành viên của Liên Hợp Quốc là 51 thành viên. Hiện nay, Liên Hợp Quốc có tất cả 192 quốc gia thành viên, là tổ chức quốc tế lớn nhất trên thế giới. Sự phát triển về số lượng thành viên của Liên Hợp Quốc chủ yếu là do quá trình phi thực dân hóa và sự tan rã của Liên Xô và Nam Tư. The Charter of the United Nations divides members into two classes- original members and elected members. Article 3 states that “The original Members of the United Nations shall be the States which, having participated in the United Nations Conference on International Organization at San Francisco, or having previously signed the Declaration by United Nations of 1 January 1942, sign the present Charter and ratify it in accordance with Article 110.” Hiến chương Liên Hợp Quốc chia các thành viên Liên Hợp Quốc thành hai loại: các thành viên sáng lập và các thành viên gia nhập. Điều 3 quy định, “Các thành viên đầu tiên của Liên Hợp Quốc là những quốc gia đã tham gia Hội nghị Liên Hợp Quốc về Tổ chức quốc tế tại San Francisco hoặc đã từng ký kết Tuyên bố Liên Hợp Quốc vào 1/1/1942, nay ký kết bản Hiến chương này và phê chuẩn nó theo điều 110”. Các thành viên gia nhập sau là các quốc gia gia nhập Liên Hợp Quốc sau thời điểm trên và phải đáp ứng các điều kiện của điều 4, khoản 1 Hiến chương Liên Hợp Quốc. II– Điều kiện gia nhập Liên Hợp Quốc Article 4, paragraph 1: Membership in the United Nations is open to all other peace-loving States which accept the obligations contained in the present Charter and, in the judgement of the organization are able and willing to carry out these obligations. 1. Là một quốc gia: theo Công ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia (Montevideo Convention on the Rights and Duties of States) được áp dụng như tập quán. Để trở thành 1 quốc gia cần phải đảm bảo 4 điều kiện chính: (i) Có lãnh thổ xác định (ii) Có dân số ổn định (iii) Có sự lãnh đạo hiệu quả của Chính phủ (iv) Có khả năng tham gia vào quan hệ chính thức với các thực thể khác Thực tiễn: - Một số thành viên ban đầu như India, Philippines, Lebanon, Syria, Belarus, Ukraine… chưa giành được độc lập tại thời điểm năm 1945, chưa thể đc gọi là một quốc gia. Tuy nhiên, các nước này đều là những nước đã ủng hộ phe Đồng minh một cách tích cực trong CTTG II, đặc biệt Ấn Độ và Philippines đều có những vai trò nhất định trong HQL. - Có lãnh thổ xác định: Israel chưa có lãnh thổ xác định, còn nhiều tranh cãi về vấn đề biên giới lãnh thổ của Israel. Đây chính là lý do mà Syria và Anh đã đưa ra để phản đối việc gia nhập Liên Hợp Quốc của Israel. Tuy nhiên, các quốc gia khác đã có một cái nhìn thoáng hơn về điều kiện này và cho rằng NQ của ĐHĐ năm 1947 đã xác định một lãnh thổ nhất định cho Israel, do đó vấn đề này không còn thật sự quan trọng. 5/1949, Israel trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc. - Có sự lãnh đạo hiệu quả của Chính phủ: o Hàn Quốc – CHDCND Triều Tiên: Mỹ và TQ kiên quyết cho rằng chính phủ HQ là chính phủ hợp pháp duy nhất do đã đc người dân HQ bầu chọn nên và đã quản lý đất nước một cách hiệu quả trên phần lãnh thổ mà Ủy ban Liên Hợp Quốc có thể quan sát và trên phần lãnh thổ mà phần lớn người dân HQ sinh sống. Trong khi đó, LX thì cho rằng chính phủ HQ chỉ là 1 chính phủ bù nhìn và đã đc lập nên bởi 1 hành động bất hợp pháp của UN. o CH Việt Nam – CHDCND Việt Nam: Pháp phản đối đơn xin gia nhập của VNDCCH với lý do là nhà nước chính quyền VNDCCH chỉ là một bộ phận chính trị ở miền Bắc, không nắm quyền kiểm soát và do đó VNDCCH không được xem là một quốc gia. o CH Congo: 9/1960, đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc củaCongo đã đc chấp thuận, mặc dù lúc này ở Congo không có một chính phủ hợp pháp nào tồn tại để lãnh đạo đất nước. → Liệu một thực thể không đảm bảo các điều kiện trên thì có đủ tư cách gia nhập Liên Hợp Quốc không ? 2. Yêu chuộng hòa bình Hiến chương Liên Hợp Quốc không đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể như thế nào là một quốc gia yêu chuộng hòa bình. Do đó việc đánh giá tiêu chuẩn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của HĐBA và ĐHĐ. Thực tiễn: a. Sau khi CHLB XHC Nam Tư tan rã năm 1991, CHLB Nam Tư đã tuyên bố kế thừa quy chế thành viên Liên Hợp Quốc của CHLB XHCN. Tuy nhiên Liên Hợp Quốc đã không chấp thuận điều này mà bắt buộc CHLB Nam Tư phải nộp đơn xin gia nhập mới. Tuy nhiên, đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc của Cộng hòa Liên bang Nam Tư (đổi tên thành Serbia và Montenegro năm 2003) không được chấp thuận vì Mỹ đòi hỏi hai quốc gia này phải chứng minh mình là các quốc gia yêu chuộng hòa bình do việc Serbia đã ủng hộ những người dân Bosnia gốc Serbia trong các cuộc đụng độ sắc tộc và làm bùng phát ở Bosnia – Herzegovina một cuộc xung đột mà đã để lại nhiều hậu quả đối với dân thường và đe dọa đến cả khu vực. b. Mỹ đã không chấp nhận việc Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản TQ gia nhập Liên Hợp Quốc với lý do Trung Quôc Cộng sản không yêu chuộng hòa bình và do đó không đáp ứng yêu cầu của điều 4 khoản 1. 3. Chấp nhận quyền và nghĩa vụ được quy định trong Hiến chương 4. Đủ khả năng và sẵn sàng thực hiện các nghĩa vụ đó Thực tiễn: -Trường hợp Việt Nam: Tháng 11/1976, đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc của Việt Nam bị Mỹ phủ quyết với lý do Việt Nam không tự nguyện thực hiện việc tìm kiếm quân nhân Mỹ bị mất tích trong chiến tranh và trao trả thi hài những người bị chết trong chiến tranh cho Mỹ. Theo Mỹ, những trách nhiệm mà một nước có khả năng và tự nguyện thực thi bao gồm cả trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới lẫn việc thực hiện các quyền con người Việt Nam. -Trường hợp Bangladesh: sau cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan – Bangladesh 1971, Bangladesh bắt giữ 135 tù nhân chiến tranh. Ngày 21/12/1971, NQ 307 – HĐBA đề nghj các bên liên quan thực thi Công ước Geneva về đối xử với tù nhân chiến tranh. Bangladesh tuyên bố thừa kế việc tham gia vào CƯ Geneva của Pakistan. Tuy nhiên trên thực tế Bangladesh không thực hiện CƯ này. Do đó, vào năm 1972, Bangladesh xin gia nhập vào Liên Hợp Quốc và đã bị Trung Quốc veto với lý do nước này không thực hiện NQ 307 của HĐBA và một nghị quyết tương tự của ĐHĐ. Trung Quốc cho rằng việc thực hiện 2 NQ này chính là dấu hiệu cho thấy khả năng và sự tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ theo Điều 4 khoản 1. -Angola: Mỹ đã phủ quyết việc Angola gia nhập Liên Hợp Quốc năm 1976 với lý do Angola chưa đáp ứng được các điều kiện ở Điều 4 khoản 1 do sự có mặt của và ảnh hưởng của 12,000 quân Cuba trong khi sự có mặt của một lực lượng quân lớn đến vậy thực sự là không cần thiết, có thể đe dọa đến an ninh và hòa bình của các nước khác trong khu vực. * 1947, ĐHĐ đưa đơn xin ý kiến tư vấn của ICJ về vấn đề : 1. Liệu một thành viên của LHQ vừa là thành viên của HĐBA, vừa là thành viên của ĐHĐ có thể đưa thêm những điều kiện khác ngoài điều kiện đưa ra ở Điều 4(1) của Hiến chương khi xem xét bỏ phiếu đồng ý gia nhập cho một nước nào đó không? 2. Cụ thể, liệu một nước đã nêu trên có thể bỏ phiếu tán thành việc gia nhập của một nước nào đó với điều kiện sự gia nhập này cũng đi kèm với sự gia nhập của một nước khác ko? → Ý kiến tư vấn của ICJ năm 1947: 1. Không thể đưa thêm các điều kiện khác ngoài các điều kiện được quy định trong Điều 4(1): + Cách giải thích cho rằng những điều kiện nêu trên chỉ là những điều kiện tối thiểu cần thiết nhưng chưa đủ và e ngại rằng việc các điều kiện đó có thể bị ảnh hưởng bởi nhân tố chính trị và do đó ngăn cản việc gia nhập của các quốc gia là không phù hợp với điều 4(2) – “any such states”. + Nếu cho phép đưa thêm sẽ trao cho các quốc gia quyền vô hạn trong việc đưa ra các điều kiện mới với việc gia nhập của các nước. + Tinh thần cũng như các thuật ngữ của Khoản 1 điều 4 không hề có ý để các quốc gia tự do đưa ra các điều kiện ngoài các điều kiện nêu trên, bởi nếu có thì các điều kiện này đã được diễn tả theo một cách khác. 2.Về vấn đề thứ 2: Không thể đưa thêm điều kiện đồng ý cho một nước gia nhập cũgn kèm theo sự gia nhập của nước khác vì: + Trả lời câu 1, không chấp nhận thêm bất kì một điều kiện nào ngoài 5 điều kiện được nêu ở Điều 4(1). + Những điều kiện Điều 4 ám chỉ rằng mỗi một đơn xin gia nhập cần được xem xét và bỏ phiếu một cách riêng rẽ, nếu không sẽ không thể xác định được liệu một quốc gia có thể đáp ứng được các điều kiện cần thiết đó hay không. Việc đưa ra một phiếu thuận chấp nhận việc gia nhập của một quốc gia kèm theo điều kiện các quốc gia khác cũg được gia nhập sẽ hạn chế quyền tự do tuyệt đối của các thành viên trong việc đánh giá trong mỗi trường hợp riêng biệt trong phạm vi các điều kiện nêu ở điều 4. Điều này không phù hợp với tinh thần của Điều 4 HC LHQ. Như vậy, các quốc gia thành viên có thể có những cách giai thích khác nhau về các điều kiện trong Điều 4(1), nhưng không được đưa thêm các điều kiện khác. III – Thủ tục gia nhập Article 4, paragraph 2: The admission of any such state to membership in the United Nations will be effected by a decision of the General Assembly upon the recommendation of the Security Council. Nộp đơn lên TTK, bản chíh gửi cho HĐBA, HĐBA thôg qua với 9/15 phiếu và ko có phiếu phủ quyết. Trên cơ sở đó, ĐHĐ thôg qua với 2/3 thành viên. Vấn đề đặt ra là liệu ĐHĐ có thể chấp nhận đơn xin gia nhập của một quốc gia mà không cần kiến nghị của HĐBA với lí do quốc gia xin gia nhập không thể đạt được đa số phiếu hoặc có phiếu phủ quyết của thành viên thường trực HĐBA đối với kiến nghị đối với việc gia nhập đó? Ý kiến tư vấn của ICJ 3/1950: Câu trả lời là không được với lí do: Việc ĐHĐ có thẩm quyền chấp nhận việc gia nhập của 1 quốc gia thiếu vắng sự kiến nghị của HĐBA sẽ tước đi của HĐBA một thẩm quyền quan trọng được Hiến chương trao cho. Điều này cũng sẽ làm vô hiệu vai trò của HĐBA trong việc thực thi một trong các chức năng cơ bản LHQ. Đồng thời cũng có nghĩa là HĐBA chỉ xem xét trường hợp gia nhập, đưa ra bản báo cáo, cho ý kiến tư vấn. Đây không phải là điều mà Điều 4(2) đề cập đến. Như vậy, việc gia nhập của một nước phải được ĐHĐ thông quan theo kiến nghị của HĐBA, tức là HĐBA đảm nhiệm trách nhiệm đầu tiên trong việc xem xét việc gia nhập của một quốc gia nhằn đảm bảo nước được kết nạp không phaỉ là một mối đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế. IV – Đình chỉ tư cách thành viên Article 5 A Member of the United Nations against which preventive or enforcement action has been taken by the Security Council may be suspended from the exercise of the rights and privileges of membership by the General Assembly upon the recommendation of the Security Council. The exercise of these rights and privileges may be restored by the Security Council. Thực tế, chỉ có Nam Phi bị đình chỉ việc tham gia vào các công việc của ĐHĐ từ 1974-1993 với lí do là CP Nam Phi không fải là đại diện hợp pháp cho nhân dân Nam Phi. Quyết định này tạo ra sự nghi ngờ về tính hợp pháp vì không hề có quy định về hình thức của chính phủ đại diện. V – Bị khai trừ Article 6 A Member of the United Nations which has persistently violated the Principles contained in the present Charter may be expelled from the Organization by the General Assembly upon the recommendation of the Security Council. Trên thực tế, đã có thời kì các quốc gia Châu Á và Châu Phi cố gắng muốn khai trừ Nam Phi ra khỏi LHQ vì chủ nghĩa Apartheid ở Nam Phi; các quốc gia Arab và Iran cũng cố gắng sử dụng các biện pháp nhằm tẩy chay dần sự có mặt của Israel bằng cách bác bỏ các văn kiện của Israel lên ĐHĐ. Tuy nhiên ĐHĐ vẫn chưa bao giờ áp dụng điều 6 để khai trừ một quốc gia ra khỏi tổ chức. VI – Tự rút khỏi Liên Hợp Quốc Thông thường, trong các quy định của văn kiện thành lập các tổ chức quốc tế có các điều khoản cho phép các thành viên của mình được phép rút khỏi hoặc cấm rút khỏi tổ chức đó hoặc không có quy định gì. Trong Hiến chương của Liên Hợp Quốc không có quy định nào cho phép hoặc cấm các thành viên rút khỏi Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên Đại hội San Francisco năm 1945 đã công nhận quyền được rút khỏi Liên Hợp Quốc trong những trường hợp đặc biệt (exceptional circumstances), ví dụ như trong trường hợp Liên Hợp Quốc không thể đảm bảo hòa bình hoặc chỉ có thể làm vậy khi nó ảnh hưởng đến luật pháp và công lý” hoặc nếu như trong trường hợp quyền và nghĩa vụ của một quốc gia thành viên bị thay đổi do những thay đổi trong Hiến chương mà các quốc gia thành viên này không chấp thuận và cảm thấy không thể chấp nhận được, hoặc nếu những thay đổi đã được thông qua bởi đại đa số trong Đại hội dồng hoặc các cuộc họp chung lại không đạt được sự phê chuẩn cần thiết để những thay đổi này có hiệu lực. Vấn đề rút khỏi Liên Hợp Quốc chỉ mới xảy ra một lần trên thực tế. Vào tháng 1 năm 1965, Indonesia, với vai trò là một thành viên không thường trực của HĐBA, đã có ý định rút khỏi Liên Hợp Quốc để phản đối cuộc bầu cử ở Malaysia (một phần lãnh thổ của Malaysia do Indonesia tuyên bố có chủ quyền) Mặc dù cuộc bầu cử của Malaysia khó có thể được xem là một trường hợp đặc biệt như đã nêu ở Tuyên bố Hội nghị San Francisco nhưng việc Indonesia rút khỏi Liên Hợp Quốc đã được Ban thư ký chấp thuận vào thời điểm đó. Vào tháng 9 năm 1966, Indonesia lại tiếp tục tham gia vào Liên Hợp Quốc. Nếu việc Indonesia rút khỏi Liên Hợp Quốc đã có hiệu lực thì Indonesia sẽ phải nộp đơn xin gia nhập Liên Hợp Quốc như điều 4 của Hiến chương quy định. Trên thực tế thì Indonesia chỉ khôi phục lại vị trí của mình như thể không có chuyện gì xảy ra, cho thấy việc rút khỏi Liên Hợp Quốc trước đây của Indonesia là không có nghĩa lý gì.