Tiểu luận Quy hoạch đô thị

Quy hoạch đô thị là bộ môn khoa học kỹ thuật, xã hội, nhân văn, là nghệ thuật về tổ chức không gian sống cho các đô thị và các khu vực đô thị. Nó là nghệ thuật sắp xếp tổ chức các không gian chức năng, khống chế hình thái kiến trúc trong đô thị trên cơ sở các điều tra, dự báo, tính toán sự phát triển, đặc điểm, vai trò, nhu cầu và nguồn lực của đô thị, nhằm cụ thể hóa chính sách phát triển, giảm thiểu các tác động có hại phát sinh trong quá trình đô thị hoá, tận dụng tối đa mọi nguồn lực và hướng tới sự phát triển bền vững. Các không gian đô thị, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội đô thị đô thị cần được quy hoạch phù hợp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội – môi trường. Vì vậy việc nghiên cứu về bộ môn kiến trúc và quy hoạch này rất có ích trong thời buổi hiện nay, đặc biệt là đối với sinh viên ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp.

doc17 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11696 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy hoạch đô thị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG KHOA XÂY DỰNG DÂN DỤNG VÀ CÔNG NGHIỆP (((  Tiểu luận môn học Cơ sở quy hoạch và kiến trúc QUY HOẠCH ĐÔ THỊ Họ và tên: Nguyễn Ngọc Đăng Mã sinh viên: 444553 Lớp: 53XD5  Quy hoạch vùng ven đô có mật độ dân cư thấp ở Cincinnati, Hoa Kỳ.  LỜI NÓI ĐẦU Quy hoạch đô thị là bộ môn khoa học kỹ thuật, xã hội, nhân văn, là nghệ thuật về tổ chức không gian sống cho các đô thị và các khu vực đô thị. Nó là nghệ thuật sắp xếp tổ chức các không gian chức năng, khống chế hình thái kiến trúc trong đô thị trên cơ sở các điều tra, dự báo, tính toán sự phát triển, đặc điểm, vai trò, nhu cầu và nguồn lực của đô thị, nhằm cụ thể hóa chính sách phát triển, giảm thiểu các tác động có hại phát sinh trong quá trình đô thị hoá, tận dụng tối đa mọi nguồn lực và hướng tới sự phát triển bền vững. Các không gian đô thị, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội đô thị đô thị cần được quy hoạch phù hợp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội – môi trường. Vì vậy việc nghiên cứu về bộ môn kiến trúc và quy hoạch này rất có ích trong thời buổi hiện nay, đặc biệt là đối với sinh viên ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp. CHƯƠNG I: QUY HOẠCH ĐÔ THỊ . CÁC LOẠI HÌNH QUY HOẠCH ĐÔ THỊ MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC ĐÔ THỊ CỔ I.Quy hoạch đô thị 1.Định nghĩa - Quy hoạch đô thị, còn gọi là quy hoạch không gian đô thị nghiên cứu có hệ thống các phương pháp để bố trí hợp lý các thành phần của đô thị, phù hợp với nhu cầu của con người và điều kiện tự nhiên, đồng thời đề ra những giải pháp kĩ thuật để thực hiện các phương pháp bố trí đó - Quy hoạch đô thị là môn khoa học tổng hợp liên quan đến nhiều ngành nghề, nhiều vấn đề: đời sống, văn hóa, xã hội, khoa học kĩ thuật, nghệ thuật và cấu tạo môi trường sống… - Quy hoạch xây dựng đô thị là bộ môn khoa học kỹ thuật, xã hội, nhân văn, là nghệ thuật về tổ chức không gian sống cho các đô thị và các khu vực đô thị. Nó là nghệ thuật sắp xếp tổ chức các không gian chức năng, khống chế hình thái kiến trúc trong đô thị trên cơ sở các điều tra, dự báo, tính toán sự phát triển, đặc điểm, vai trò, nhu cầu và nguồn lực của đô thị, nhằm cụ thể hóa chính sách phát triển, giảm thiểu các tác động có hại phát sinh trong quá trình đô thị hóa, tận dụng tối đa mọi nguồn lực, và hướng tới sự phát triển bền vững. Các không gian đô thị, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội đô thị cần được quy hoạch phù hợp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội- môi trường. 2. Một số đặc điểm và yêu cầu của công tác quy hoạch đô thị 2.1 Đặc điểm - Quy hoạch đô thị là công tác có tính chính sách - Quy hoạch đô thị là công tác có tính tổng hợp - Quy hoạch đô thị là công tác có tính địa phương và tính kế thừa - Quy hoạch đô thị là công tác có tính dự đoán và cơ động. 2.2 Yêu cầu Quy hoạch đô thị phải đạt được 3 yêu cầu sau: - Tạo lập tối ưu các điều kiện không gian cho quá trình sản xuất và mở rộng của xã hội. - Phát triển tổng hợp toàn diện những điều kiện sống, điều kiện lao động và tiền đề phát triển nhân cách, quan hệ cộng đồng của con người. - Tạo lập tối ưu quá trình trao đổi chất giữa con người và thiên nhiên, khai thác tài nguyên môi trường 3.Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của công tác quy hoạch đô thị và xây dựng đô thị. 3.1. Mục tiêu - Công tác quy hoạch đô thị nhằm cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, trước tiên là cụ thể hoá chiến lược phát triển của đô thị đối với nền kinh tế quốc dân. - Tất cả các đô thị đều phải có quy hoạch: quy hoạch cải tạo và quy hoạch xây dựng phát triển đô thị. Các đồ án quy hoạch được duyệt là cơ sở pháp lý để quản lý xây dựng đô thị, tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng cơ bản. Ở Việt Nam theo quy định của Bộ xây dựng thì đồ án quy hoạch xây dựng đô thị bao gồm các giai đoạn sau: Quy hoạch vùng lãnh thổ -> Quy hoạch chi tiết đô thị -> Quy hoạch chi tiết cụm công trình -> Thiết kế xây dựng công trình Nhiệm vụ a. Tổ chức sản xuất: - Quy hoạch đô thị phải đảm bảo hợp lý các khu vực sản xuất, trước tiên là các khu công nghiệp tập trung, các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở thủ công nghiệp và các loại hình đặc trưng khác. Phải giải quyết các mối quan hệ giữa các khu công nghiệp với khu dân cư như với các khu hoạt động khác. b. Tổ chức đời sống: - Quy hoạch đô thị có nhiệm vụ tổ chức tốt đời sống và mọi hoạt động khác của người dân đô thị, tạo cơ cấu hợp lý trong việc phân bố dân cư và sử dụng đất đai đô thị nhất là trong việc tổ chức các khu ở, các khu công cộng, phúc lợi xã hội, các khu cây xanh, khu vui chơi giải trí… c. Tổ chức không gian kiến trúc và cảnh quan, môi trường đô thị: - Đây là nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quy hoạch đô thị nhằm cụ thể hoá công tác xây dựng đô thị, tạo cho mỗi đô thị một đặc trưng riêng về bộ mặt kiến trúc, hài hoà với khung cảnh thiên nhiên và địa hình. Cho nên quy hoạch đô thị cần xác định hướng bố cục không gian kiến trúc, xác định vị trí và hình khối của các công trình mang tính chủ đạo của đô thị. II. Các loại hình quy hoạch đô thị * Tất cả các đô thị đều phải có quy hoạch:quy hoạch cải tạo và quy hoạch xây dựng phát triển đô thị.Các đồ án quy hoạch được duyệt là cơ sở pháp lý để quản lý xây dựng đô thị,tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng cơ bản. * Có 4 loại hình quy hoạch đô thị: - Quy hoạch vùng - Quy hoạch chung - Quy hoạch phân khu - Quy hoạch chi tiết 1. Quy hoạch vùng - Tổng hợp nhằm đánh giá thực trạng và các nguồn lực phát triển của vùng, dự báo các khả năng phát triển, xây dựng mục tiêu và định hướng phát triển vùng, từ đó đề ra các chính sách, cơ chế quản lý và các bước phát triển của vùng 2. Quy hoạc chung - Xác định mục tiêu phương hướng xây dựng cải tạo xây dựng về sử dụng đất, tổ chức không gian hạ tầng kĩ thuật môi trường nhằm tạo ra một môi trường sống thích hợp và phát triển bền vững - Đồ án được nghiên cứu theo từng giai đoạn + Dài hạn: 10 – 20 năm + Ngắn hạn: 5 – 10 năm 3. Quy hoạch phân khu: - xác định phạm vi ranh giới diện tích tính chất khu vực lập QH.Chỉ tiêu dự kiến về dân số về sử dụng đất,hạ tầng kĩ thuật,hạ tầng xã hội,yêu cầu nguyên tắc cơ bản về phân khu chức năng để đảm bảo phù hợp về không gian kiến trúc đầu nối hạ tầng kĩ thuật với quy hoạch chungđã được phê duyệt và quy hoạch xung quanh 4. Quy hoạch chi tiết: - Là việc cụ thể hóa ý đồ của quy hoạch chung và quy hoạch phân khu.Đồ án QH chi tiết thường được nghiên cứu ở tỉ lệ:1/2000;1/1000;1/500.Tùy theo mức độ và yêu cầu cụ thể III. Một số đặc trưng của các đô thị cổ Khoảng 200.000 năm trước ở thời đồ đá cũ, những tổ tiên của loài người đã sử dụng những công cụ đơn giản trong hàng nghìn năm nhưng cùng với thời gian các công cụ đó trở nên tinh xảo và phức tạp hơn. Con người ở thời này sống theo kiểu săn bắt – hái lượm, cuối cùng đa số các xã hội săn bắt – hái lượm đã phát triển, hay buộc phải hấp thu vào những tổ chức xã hội nông nghiệp lớn hơn. Một sự thay đổi lớn, được miêu tả như là một “ cuộc cách mạng” đã diễn ra khoảng thiên niên kỷ 19 TCN với việc hình thành nghề nông. Nông nghiệp đã tạo cơ hội cho các xã hội phức tạp hơn, cũng được gọi là những nền văn minh. Các vùng lưu vực ven sông trở thành những cái nôi của những nền văn minh đầu tiên như lưu vực sông Hoàng Hà ở Trung Quốc, sông Nin ở Ai Cập, và lưu vực sông Ấn ở Pakistan. Nông nghiệp dẫn tới nhiều thay đổi lớn, nó cho phép một xã hội đông đúc hơn rất nhiều, và nó tự tổ chức mình vào trong những quốc gia. Nông nghiệp cũng tạo nên và cho phép sự tích trữ lương thực thặng dư có thể dùng để cung cấp cho những người không dính dáng trực tiếp tới việc sản xuất lương thực. Sự phát triển của nông nghiệp cho phép sự xuất hiện của những thành phố đầu tiên. Dần dần các thành phố xuất hiện ngày càng nhiều trên mỗi quốc gia, bắt đầu hình thành lên những đô thị như là Ai Cập, La mã, Hy Lạp … 1. Đô thị cổ Ai Cập - Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại. - Đặc điểm của kiến trúc Ai Cập là công trình có quy mô lớn, kích thước đồ sộ, nặng nề và thần bí. Trước khi nhắc đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc Ai Cập cổ đại, phải nói đến sự khéo tay trong nghề làm đá của những người thợ giỏi trong xã hội Ai Cập cổ đại. Vật liệu đá trong xã hội Ai Cập có nhiều loại: đá vôi, đá sa thạch, đá đen, đá thạch anh, đá hoa cương, đá minh ngọc. Đặc trưng kiến trúc Ai Cập cổ thể hiện sự khan hiếm vật liệu gỗ, nên người Ai Cập cổ sử dụng vật liệu trong xây dựng chủ yếu là gạch chưa nung, đá các loại. Trong suốt các triều đại Ai Cập cổ, vật liệu đá được dùng hầu hết cho các công trình như lăng mộ và đền đài. Đôi khi, các vật liệu gạch có được dùng trong các công việc xây dựng lâu đài của các vua, pháo đài và một số công trình dân dụng khác như tường bao quanh lâu đài, đền đài và đô thị và các công trình phụ trợ ít quan trọng trong các đền đài. Rất nhiều công trình nhỏ của Ai Cập cổ đã bị phá hủy và cuốn trôi theo những cơn giận giữ bất thường của sông Nil. Tuy nhiên, do điều kiện khí hậu khô, nóng của Ai Cập cũng giúp bảo tồn được khá nhiều các công trình xây bằng gạch chưa nung. Ví dụ, ngày nay còn lại một số ngôi làng như Deir al-Madinah, pháo đài Buhen và Mirgissa. Các công trình bằng đá ở các khu đất cao, không ảnh hưởng bởi lũ lụt của sông Nil nhưng cũng chịu tác động không nhỏ của các cơn bão cát sẵn có ở vùng này. - Kim tự tháp Người cổ đại ở nhiều nơi trên thế giới đã từng xây dựng các kim tự tháp. Nhưng những kim tự tháp Ai Cập vẫn là những kim tự tháp lớn nhất và nổi tiếng nhất hành tinh và luôn ẩn tàng những bí ẩn về khả năng xây dựng tuyệt vời của người Ai Cập cổ đại. Suốt từ năm 2630 tới 1530 trước Công nguyên, họ đã xây dựng cả thảy hơn 90 kim tự tháp. Kim tự tháp Ai Cập được xây bên bờ tây của sông Nil ngoại thành Cai Rô. Với cách làm thủ công, không dùng các kỹ thuật cơ giới, kiệt tác về xây dựng và kiến trúc này sừng sững như một tuyên ngôn về tài nghệ xây dựng vô song của người xưa. Các kim tự tháp đều được xây dựng xếp theo các hướng chính của la bàn (các mặt của chúng theo hướng Nam - Bắc và Đông -Tây) và phần lớn nằm trên các đồi sa mạc ở bờ tây sông Nil, phía mặt trời lặn… Người Ai Cập cổ tin rằng linh hồn của các hoàng đế qua đời vẫn ở trong thân thể và du ngoạn hằng ngày cùng mặt trời. Khi mặt trời lặn phía tây, linh hồn của người quá cố trở về hầm mộ kim tự tháp và phục sinh... - Sơ đồ bên trong của các kim tự tháp thay đổi theo từng thời kỳ xây dựng. Nhưng cửa vào thì luôn ở chính giữa mặt phía bắc. Từ đây có một lối đi xuống, đôi khi đi thẳng tới hầm mộ hoàng đế ở điểm giữa kim tự tháp. Trong kim tự tháp có nhiều phòng kho, một số để chứa những đồ vật tế lễ vật dụng cho cuộc sống sau khi chết. Có khá nhiều đồ quý trong kim tự tháp đã bị mất cắp theo thời gian.  Kim Tự Tháp Cheops ( thuộc quần thể khu lăng mộ Giza) - Đô thị cổ đại Ai Cập ở hạ lưu sông Nin thường là hình chữ nhật,xây dựng vào khoảng 3500 năm trước CN.Thành phố Kahan là một ví dụ:Thành phố có mật độ xây dựng cao,cơ cấu thành phố phân rõ khu chủ nô và nô lệ.Khu ở cho người giàu là nhà ở có vườn với diện tích mỗi lô 600m2.Nhà ở cho người nghèo là những khu ở thấp tầng,đặc biệt có hệ thống tưới nước cho cây,các đường phố đã được trồng cây,cây xanh được coi là một yếu tố quan trọng trong cấu trúc đô thị 2.Đô thị cổ Hy Lạp: - Hy Lạp cổ đại ra đời và hình thành trên một vùng đất đai rộng lớn, bao gồm miền Nam bán đảo Balkans, các đảo nhỏ ở vùng biển Aegaeum (Αιγαίον, Aigaion), khu vực Tiểu Á, vùng ven Hắc Hải, Ý, Sicilia, Pháp, Tây Ban Nha và Ai Cập. Ở nơi đây, người ta thường tổ chức các lễ hội, tiến hành thi đấu thể dục thể thao, bình luận văn chương, diễn thuyết, ngâm thơ và biểu diễn kịch, ngoài ra còn có thể trao đổi, mua bán. Do đó, về sau người ta đã xây thêm xung quanh các quần thể này những sân bãi thi đấu, quán trọ, hội trường, các hành lang cột và các loại đền đài. - Thành phố bàn cờ của Hyppodamus là điểm đặc trưng của quy hoạch Hy Lạp cổ đại.Bố cục mặt bằng của thành phố được chia thành các lô phố theo hệ thống đường ô cờ với hai đường chính Nam Bắc và Đông Tây;khoảng cách giữa các đường nói chung khoảng từ 30 đến 50 m. - Thành phố Mile của Hyppodamus có kích thước các lô phố là 47,2 . 25,4m.Tuyến đường chính Đông Tây rộng 7,5m đi qua trung tâm có thể đi xe,còn tuyến Bắc Nam rộng từ 3-4 m có độ dốc lớn nên chủ yếu dành cho đi bộ. +Các thành phố đều có các trung tâm và quảng trường chính là Acropolis và Agora. Acropolis là khu vực trung tâm của thành phố,nơi tập trung các đền thờ mang tính tâm linh và nhà ở của các quan tòa cao cấp.Agora thực chất là một quảng trường ở trung tâm,nơi tập trung các sinh hoạt về thương mại và hành chính của thành phố  Đền thờ Hy Lạp cổ đại - Xã hội Hy Lạp cổ đề cao tính dân chủ quan tâm đến việc giáo dục con người và môi trường sống ở đô thị.Quan điểm thành phố Nhà Nước lí tưởng có quy mô 10000 dân được chia thành 3 phần và 3 cấp theo hệ thống luật lệ. - Đô thị có địa điểm dựa trên cơ sở hướng gió,nguồn nước và khai thác tài nguyên.Về mặt môi trường và thẩm mỹ,mỗi thành phố phải cách biển ít nhất 14 km.Mỗi thành phố đều có cảng để phát triển về thương mại,hang hải.Về quy mô,thành phố được tính toán dựa theo thuyết huyền nhiệm toán học:Một thành phố Nhà Nước lí tưởng là 5040 người.Đất nông nghiệp được chia thành 12 khu vực còn trung tâm thành phố có các đền thờ,nhà ở và nơi làm việc của các chức sắc cấp cao.Các lô ở của dân chúng bố trí bao quanh trung tâm thành phố vừa tạo cảm giác đông đúc vừa có tác dụng bảo vệ thành phố.Thành phố Hy Lạp cổ đại không có thành,các dịch vụ thương mại bố trí bên ngoài thành phố +Theo Aritotle,trong công tác quy hoạch xây dựng có 4 điều kiện cơ bản:sức khỏe,an ninh quốc phòng,ổn định chính trị,thẩm mĩ.Dân số và các khu chức năng đô thị được phân chia trên cơ sở lao động theo 3 thành phần:tri thức,binh lính và thợ thủ công. +Về bố cục,Agora được bố trí phía dưới Acropolis giữa các công trình công cộng và khu ở của các chức sắc cao cấp của thành phố.riêng quảng trường buôn bán được chuyển ra phía ngoài cùng với khu ở của các nhân viên hành chính cấp thấp,các nhà buôn,thợ thủ công nông dân 3 Đô thị cổ La Mã: - Quy hoạch và kiến trúc La Mã cổ đại đã tiếp thu được những thành tựu của nền văn hóa trước đó cũng như bị ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh Hy Lạp. - Số lượg kiến trúc rất lớn, các loại hình kiến trúc chủ yếu là: +Đền thờ thần, miếu thờ thần. +Basilica (nơi xử án và sinh hoạt công cộng). +Các công trình hành chính(Curia-Viện nguyên lão), lưu trữ, thư viện. +Quảng trường +Nhà tắm công cộng(Therma) +Hý trường , kịch trường. +Đấu trường. +Khải hoàn môn. +Các loại nhà ở, cung điện. +Cầu dẫn nước,cầu cống, đường sá.  La Mã cổ đại - Quy mô kiến trúc đồ sộ, tường dày, hoành tráng bề thế, gây ấn tượng về sức mạnh,quyền lực, tạo cảm giác về một sự bền vững lâu dài, nhiều công trình đã chịu đựng được thử thách của thời gian.Về độ lớn của công trình, có thể kể ra Nhà trò lớn ở Roma dài 635m chứa được 150000 người, Basilica Julia có Dt rộng 5000m2, nhà tắm công cộng Caracalla cùng 1 lúc có sức chứa 1600 người... Nếu nghệ thuật Hy lạp tìm đến 1 sự hài hòa giữa hình thức và cấu trúc, giữa kiến trúc và trang trí, thì kiến trúc La mã, ngược lại, lại là 1 nghệ thuật ứng dụng nhằm đáp ứng tính cách sôi động và thực ụng của người La Mã. - Tổ hợp không gian của kiến trúc La mã rất phức tạp do công năng của công trình cần đáp ứng được các yêu cầu ngày càng đa dạng của cuộc sống. Kết cấu các công trình kiến trúc La mã có nhiều tiến bộ kỹ thuật xây dựng vòm, cuốn bằng đá và nhờ việc tìm ra bêtông thiên nhiên, người La mã đã thực hiện được những kết cấu không gian lớn. - Người La mã đã tiếp tục phát triển ba loại thức cột Doric, Ionic và Corinth của Hy lạp cổ đại, làm phong phú thêm hình thức của ba loại thức cột này và sang tạo thêm hai lạoi tức cột mới là Toscan và Compozit. Khác với nhà nước Hy lạp cổ đại là nhà nước nô lệ cấp thấp, dân tự do có tính tích cực cao, nhà nước La Mã cổ đại có nền kinh tế nô lệ phát triển đến giai đoạn cao nhất, số nô lệ rất lớn và sau chiến tranh càng lớn được dùng đại quy mô và coác hoạt động xây dựng. Việc sử dụng phổ biến sức lao động rẻ mạt của nô lệ đã đẩy dân tự do và nông dân vào chổ phá sản. Do đó mâu thuẫn giai cấp trở nên sâu sắc, và ngoài mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, mâu thuẫn bên trong nội bộ của giai câp thống trị, mâu thuẫn giữa chính quyền trung ương và chính quyền hàng tỉnh cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. - Thương nghiệp trong xã hội La Mã cổ đại phát triển hơn và đa dạng hơn, ngoài thương nhân kim hoàn là những nhà giàu có vị trí trong xã hội, các thương nhân đầu cơ, cho vay nặng lãi, thương nhân cho thuê nhà ở cũng xuất hiện. Về tôn giáo, người La mã thờ đa thần giáo và Cơ đốc giáo. Người La mã đã kế tục ton giáo Etrusque và Hy lạp nhưng đỗi tên các thần theo cáh gọi riêng của mình, người La mã thờ các thần Jupiter ( thần sức mạnh, tên Hy lạp trườc đây là Zeus), thần Junon ( nữ thần Bảo vệ, tên Hy lạp cũ là Hera). thần Apollo ( thần Mặt trời, bảo vệ nghệ thuật, người Hy lạp gọi là Apollo), ngoài ra còn có các thần biển Neptune ( Poseidon), thần tình yêu và sắc đẹp Venus ( Aphrodite), thần bảo vệ mùa màng Seres(Demeter)... CHƯƠNG II: ĐƠN VỊ Ở - CÁC THÀNH PHẦN ĐẤT ĐAI TRONG ĐƠN VỊ Ở I. Đơn vị ở * Đơn vị ở là một điểm dân cư trong đô thị: Điểm dân cư đô thị là một điểm dân cư tập trung phần lớn những người dân phi nông nghiệp, họ sống và làm việc theo kiểu thành thị - Đơn vị có các điều kiện thích nghi với một không gian và thời gian - Đơn vị có các điều kiện thích nghi với chất lượng sống - Đạt được mục tiêu tối thiểu khi xác định các tiêu chí - Đơn vị ở hợp lí đảm bảo sự ổn định và tính chất toàn vẹn tương đối từng cấu trúc đô thị hướng tới sự phát triển bền vững * Các khu chức năng bao gồm các nhóm nhà ở - Các công trình dịch vụ cấp đơn vị ở như trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở; trạm y tế, chợ, trung tâm thể dục thể thao (TDTT), điểm sinh hoạt văn hóa và các trung tâm dịch vụ cấp đơn vị ở khác phục vụ cho nhu cầu thường xuyên của cộng đồng dân cư trong đơn vị ở...; vườn hoa, sân chơi trong đơn vị ở; đất đường giao thông nội bộ (bao gồm đường từ cấp phân khu vực đến đường nhóm nhà ở) và bãi đỗ xe phục vụ trong đơn vị ở... - Các công trình dịch vụ cấp đơn vị ở (cấp I) và vườn hoa sân chơi trong đơn vị ở có bán kính phục vụ ≤500m. Quy mô dân số tối đa của đơn vị ở là 20.000 người, quy mô dân số tối thiểu của đơn vị ở là 4.000 người (đối với các đô thị miền núi là 2.800 người). Đường giao thông chính đô thị không được chia cắt đơn vị ở. Tùy theo quy mô và nhu cầu quản lý để bố trí trung tâm hành chính cấp phường. II. Các thành phần đât đai trong đơn vị ở 1. đất ở đô thị - Là đất xây dựng các công trình nhà ở các loại. Việc tổ chức hợp lý khu ở đô thị có ý nghĩa quyết định đến đời sống nhân dân đô thị , đến môi trường và khung cảnh sống đô thị. Trước đây đất ở đô thị được coi là những đơn vị ở tiểu khu được tổ chức theo một nguyên lí cứng nhắc và đồng đều trong một cuộc sống đô thị. Quan niệm bình quân và đồng đều trong việc phân chia, quản lí đất đai xây dựng nhà ở đã dẫn đến tình trạng mô nô tôn trong cấu trúc đô thị và hình thức tổ chức không gian kiến trúc các khu ở. Đất ở đô thị là phạm vi đất đai xây dựng các công trình nhà ở, các công trình phục vụ công cộng thiết yếu hàng ngày, các cửa hàng dịch vụ tư nhân, tập thể hoặc nhà nước gắn liền với công trình nhà ở có quy mô nhỏ dọc theo các đường phố nội bộ, các khu cây xanh vườn hoa nhỏ cho trẻ em trên các khu đất trống giữa các công trình. Đất ở đô thị được giới hạn bởi hệ thống đường nội bộ, phân thành các lô đất có quy mô vừa đủ để đảm bảo cuộc sống an toàn thoải mái và bền vững. 2. Đất xây dựng các công trình công cộng - Là những lô đất dành riêng cho cac công trình dịch vụ công cộng cấp thành phố, cấp quậ