Chè là sản phẩm chế biến được từ búp, cuống và các lá non thu hái ở
cây chè (gọi chung là nguyên liệu chè).
Với các phương pháp chế biến khác nhau, từ nguyên liệu chè, người ta
chế biến ra được các loại chè có hương vị, thành phần, khác nhau :
Chè xanh có màu nước pha xanh vàng, vị đậm dịu và hương thơm
tự nhiên của chè; được chế biến bằng cáchđem nguyên liệu chè diệt
men rồi vò, sau đó làm khô.
Chè đen khác hẳn chè xanh là trong quá trình chế biến nó không
tiến hành diệt men ngay mà thêm giai đoạn lên men để tạo ra
những biến đổi sinh hóa cần thiếtlàm cho màu sắc và thành phẩm
sau này có những đặc tính riêng : màu nước pha đỏ nâu sáng, vị
dịu, hương thơm nhẹ.
Chè đỏ được chế biến bằng cách đem nguyên liệu chè làm héo và
lên men, sao và vò kết hợp, cuối cùng sấy khô đóng bao thành
phẩm. Chè đỏ có màu nước pha màu vàng ánh, hoặc ánh kim, vị
đậm, hương thơm đặc biệt.
Chè vàng có hương thơm mạnh, vị chát dịu, màu nước pha vàng
ánh, được chế biến từ nguyên liệu chè qua các giai g\đoạn diệt men
rồi vò hoặc không vò, cuối cùnh ủ, sao ho ặc sấy ở nhiệt độ thấp.
Trong các loại chè, thế giới sản xuất và tiêu thụ nhiều nhất 2 lo ại chè là
chè đen và chè xanh.
18 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7460 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy trình sản xuất trà túi lọc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 1 -
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
TIỂU LUẬN
Quy trình sản xuất trà túi lọc
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 2 -
I. VÀI NÉT VỀ SẢN PHẨM CHÈ
Chè là sản phẩm chế biến được từ búp, cuống và các lá non thu hái ở
cây chè (gọi chung là nguyên liệu chè).
Với các phương pháp chế biến khác nhau, từ nguyên liệu chè, người ta
chế biến ra được các loại chè có hương vị, thành phần,… khác nhau :
Chè xanh có màu nước pha xanh vàng, vị đậm dịu và hương thơm
tự nhiên của chè; được chế biến bằng cáchđem nguyên liệu chè diệt
men rồi vò, sau đó làm khô.
Chè đen khác hẳn chè xanh là trong quá trình chế biến nó không
tiến hành diệt men ngay mà thêm giai đoạn lên men để tạo ra
những biến đổi sinh hóa cần thiếtlàm cho màu sắc và thành phẩm
sau này có những đặc tính riêng : màu nước pha đỏ nâu sáng, vị
dịu, hương thơm nhẹ.
Chè đỏ được chế biến bằng cách đem nguyên liệu chè làm héo và
lên men, sao và vò kết hợp, cuối cùng sấy khô đóng bao thành
phẩm. Chè đỏ có màu nước pha màu vàng ánh, hoặc ánh kim, vị
đậm, hương thơm đặc biệt.
Chè vàng có hương thơm mạnh, vị chát dịu, màu nước pha vàng
ánh, được chế biến từ nguyên liệu chè qua các giai g\đoạn diệt men
rồi vò hoặc không vò, cuối cùnh ủ, sao hoặc sấy ở nhiệt độ thấp.
Trong các loại chè, thế giới sản xuất và tiêu thụ nhiều nhất 2 loại chè là
chè đen và chè xanh.
II. NGUỒN GỐC CÂY CHÈ
Sau khi tiến hành giải phẫu hình thái cũng như nghiên cứu về những
đặc tính lý sinh – hóa sinh của cây chè mà K.M Zemukhatze đã đi đến kết
luận : “ Ở những loại chè hoang dại từ cổ xưa phát triển chậm khả năng
tổng hợp các (-) epigalocatechin và các galat của chúng để tạo thành (+)
galocatechin, còn cũng trong thời gian này ở các loại chè được chăm sóc
thì do chúng tự tổng hợp là chủ yếu.”
Do đó, theo quan điểm của K.M.Zemukhatze, chè mọc hoang dại ở
Việt Nam tổng hợp (-) epigalocatechin và các galat của nó, còn khi di
thực các cây này lên phía Bắc ở các điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn,
chúng sẽ thích nghi dần với các điều kiện sinh thái mới, bằng cách có
thành phần catechin phức tạp hơn cùnh với việc tạo thành (-)
epigalocatechin và các galat của nó, có nghĩa là sự trao đổi chất ở đây
hướng về phía tăng cường quá trình hydroxila hóa và galin hóa. Từ những
biến đổi hóa sinh này, chè mọc hoang dại và chè được trồng trọt chăm sóc
cho phép Dzemuklaze kết luận rằng : Nguồn gốc sinh trưởng của cây chè
chính là ở Việt Nam.
III. GIÁ TRỊ CỦA CHÈ – ẢNH HƯỞNG CỦA CHÈ ĐẾN CƠ THỂ
CON NGƯỜI
Cách đây gần 2000 năm, chè đã được các thầy thuốc Trung Quốc sử
dụng như một vị thuốc giúp con người khỏe và trẻ hơn. Các nghiên cứu y
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 3 -
khoa hiện đại cũng phát hiện ngày càng nhiều giá trị dược dụng của chè.
Việc sử dụng hàng ngày loại đồ uống này có thể giúp phòng và chữa nhiều
bệnh tật.
Do chứa các chất chống oxy hóa nên chè giúp làm chậm đi sự già cỗi
của tế bào. Chất gallotanin trong chè ngăn chặn sự thoái hóa của tế bào
thần kinh và khích thích quá trình phục hồi của chúng. Các flavonoide hạn
chế sự lắng đọng cholesterol và xơ hóa mạch máu, làm giảm nguy cơ tai
biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim và tỷ lệ tử vong do các vấn đề tim
mạch.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, chè có khả năng phòng chống ung thư,
ngăn chặn sự tổn thương AND. Việc uống chè thường xuyên giúp giảm
50% nguy cơ ung thư dạ dày, 40% nguy cơ ung thư da. Thứ đồ uống này
cũng giúp ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh parkinson và hạn chế sự loãng
xương ở người già.
Chè được coi là sản phẩm cho hương vị, vì đúng thật giá trị của sản
phẩm này được xác định chính nhờ hương thơm, vị dễ chịu cũng như tính
chất thanh nhã của nó. Theo xác nhận của nhiều nhà khoa học, chè tăng
cường độ hoạt động của hệ thần kinh, gây hưng phấn và sảng khoái, xua
tan mệt mỏi, mơ màng. Bởi vậy, chè có ích cho các hoạt động không chỉ
vào ban ngày mà cả vào ban đêm. Nhờ những mặt tích cực đó mà chè
được sử dụng phổ biến gần như khắp các nước trên thế giới. Mặt khác, chè
còn có giá trị sinh lí rất cao bởi vì trong chè có nhiều loại vitamin và phức
catechin cho các tính chất của vitamin và là một loại nguyên liệu có tác
dụng củng cố tốt các mao mạch. Theo Zem – Levi D.E cho biết, nếu dùng
tới 75 100mg chế phẩm catechin thì tình trạng bệnh tật tốt hẳn lên,
không thấy tiếng ồn ào ở tai và bị đau đầu, áp suất động mạch giảm rõ rệt.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý thêm rằng còn một tính chất quan trọng nữa của
tanin chè mà các nhà khoa học Nhật là Tiến sĩ Teizi Ugai và Tiến sĩ Eisi
Gaiasi đã tiến hành các thí nghiệm trên chuột bạch cho thấy với 2% dung
dịch tanin chè cho uống sẽ tách ra được từ cơ thể 90% chất đồng vị phóng
xạ Stronti 90.
IV. VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ TRÊN THẾ GIỚI
VÀ Ở VIỆT NAM
1. Vài nét về tình hình sản xuất chè trên thế giới
Tổng sản lượng chè năm 1974 của thế giới là 1 602 000 tấn, trong đó
Châu Á và Châu Đại Dương sản xuất 1 340 000 tấn, Châu Phi là 153 000
tấn. Châu Au, nơi tiêu thụ chè nhiều nhất thế giới nhưng sản xuất không
được bao nhiêu vì điều kiện khí hậu, đất đai không thích hợp với việc
trồng chè.
Hiện nay có khoảng 40 nước trên thế giới trồng chè. Những nước có
sản lượng chè lớn trên thế giới như An Độ, Trung Quốc, Xrilanca, Nhật
Bản, Iđônêxia.
An Độ là nước sản xuất chè nhiều nhất trên thế giới. Năm 1955, An
Độ có 320 000 hecta trồng chè, sản lượng 300,4 nghìn tấn chè. Năm 1974,
An Độ đã sản xuất 490 000 tấn chè, xuất khẩu 177000 tấn chè. Nhờ điều
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 4 -
kiện khí hậu thuận lợi, cây chè ở An Độ phát triển nhanh, cho năng suất
thu hoạch nguyên liệu chè khá cao.
Trung Quốc là nước sản xuất chè đứng thứ 2 trên thế giới sau An Độ.
Trung Quốc là quê hương của cây chè và là nước có nhiều kinh nghiệm về
chế biến các loại chè.
Xrilanca sản xuất 201 000 tấn chè vào năm 1974. Cũng năm đó,
Xrilanca xuất khẩu 166 000 tấn chè. Kỹ thuật chế biến chè của Xrilanca
cũng tương tự như của An Độ.
Nhật Bản cũng là một nước sản xuất nhiều chè trên thế giới. Về năng
suất thu hoạch thì Nhật Bản đứng đầu các nước sản xuất chè trên thế giới :
trung bình đạt 6,7 nghìn kg chè (lá tươi)/1ha chè. Ở Nhật Bản chủ yếu sản
xuất chè xanh (90 95%). Chè xanh ở Nhật Bản có chất lượng cao, còn
chè đen thì chất lượng thấp. Chè xanh ở đây có màu nước pha đậm màu
xanh, sáng. Giohuro là loại chè xanh nổi tiếng của Nhật Bản mà trên thế
giới nhiều người biết đến. Chè loại này có chất lượng rất cao, vỏ rất xoăn
và bề mặt sáng bóng. Năm 1970, ở Nhật Bản sản xuất 92 nghìn tấn chè.
Nhìn chung, các nước sản xuất chè tập trung sản xuất các loại chè đen
và chè xanh.
2. Tình hình và triển vọng của việc sản xuất chè ở Việt Nam
Do điều kiện đất đai, khí hậu thích hợp, cây chè trồng ở Việt Nam
sinh trưởng và phát triển rất mạnh. Với kinh nghiệm cổ truyền kết hợp với
kinh nghiệmtiên tiến của các nước trên thế giới, việc trồng chè ở nước ta
đã từng bước được cải tiến phương pháp canh tác, lai tạo giống, chăm sóc,
cải tạo cây chè và đã có những điển hình về năng suất thu hoạch nguyên
liệu chè : 6 – 8 tấn/hecta ở một hợp tác xã và 10 – 15 tấn/hecta ở một số
nông trường trồng chè, đặc biệt có những nương chè cao sản xuất 19 – 20
tấn/hecta, trong khi năng suất bình quân thế giới la 4,5 – 5 tấn/hecta.
Nước ta cũng đã có hơn 20 nhà máy chế biến chè quy mô lớn, hàng
trăm nhà máy chè cỡ trung bình và nhỏ, chế biến theo phương pháp bán cơ
giới hay thủ công, một nhà nhà máy chuyên chế tạo và sửa chữa các thiết
bị chế biến chè.
Chè của nước ta xuất khẩu sang Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa
khác ở Đông Au, Anh, Ai Cập… được ưa thích và các nước này đều mong
được mua với khối lượng lớn hơn. Tất cả những điều đó cho thấy triển
vọng của việc phát triển sản xuất chè ở Việt Nam rất lớn.
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 5 -
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 6 -
Chương II
THÀNH PHẦN CHÍNH CỦA LÁ CHÈ
Các chất khô của chè được chia thành 2 nhóm :
Các chất hòa tan trong nước :
- Hợp chất phenola, catechin, teogalin, acid clorogenic antaxian, …
- Đường : monosaccarit, disaccarit, perto
- Các hợp chất pectin
- Các loại rượu
- Các acid succinic, citric, lactic, …
- Các hợp chất có Nitơ : protein hòa tan trong nước, acid amin
- Các dẫn xuất purin : cafein,guanin, acttein, teofilin, teoromin
- Các sắc tố
- Các hợp chất thơm
- Vitamin
- Enzym (men)
- Các chất khoáng
Các chất không hòa tan trong nước :
- Protein
- Cellulose
- Protopectin + hemicellulose
- Tinh bột
- Các chất khoáng không hòa tan
- Tanin không hòa tan (kết hợp với protein)
- Enzym không tan (kết hợp với phần tế bào không tan)
- Vitamin (tan trong chất béo)
- Lignin
Trong đó, nước, các hợp chất phenola, caféin, tinh dầu, protein, glucid,
pectin, sắc tố, enzym và chất trơ là những thành phần quan trọng hơn cả
trong lá chè.
1. NƯỚC
Trong lá chè, nước chủ yếu là môi trường mà ở đó thường xảy ra sự
tác dụng tương hỗ giữa các chất hòa tan. Ngoài ra, nước còn là thành phần
chính liên tục tham gia vào các phản ứng thủy phân và oxy hóa – khử
không ngừng xảy ra trong các tế bào của lá.
2. CHẤT CHIẾT
Một trong những đối tượng và chỉ tiêu quan trọng nhất về chất lượng
của chè chính là hàm lượng của các chất rửa được. Các chất này trong quá
trình ngâm (pha chè) sẽ đi vào nước pha. Hàm lượng của các chất chiết ra
trong nước chè còn phụ thuộc vào loại chè, vào phẩm chất của nguyên liệu,
vào sự thực hiện đúng đắn các quy trình công nghệ và vào vụ chế biến chè.
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 7 -
3. PHỨC CHẤT TANIN (CHẤT CHÁT)
Trong thành phần hóa học của chè tươi hay chè thành phẩm, chất chát
(hay còn gọi là phức chất tanin) giữ một vị trí hết sức quan trọng vì nó
quyết định chất lượng của chè. Tanin không những tạo nên vị độc đáo cho
chè mà còn tham gia vào các quá trình biến đổi hóa học dưới tác dụng của
các enzym oxy hóa để tạo ra hương thơm và màu sắc đặc trưng cho mỗi loại
chè.
4. CAFÉIN
Caféin có CTPT là : C8H10N4O2
CTCT :
CH3
N
O
N
CH3
N
N
CH3
O
Caféin là chất có tác dụng kích thích, gây hưng phấn cho cơ thể con
người, có lẽ chính nhờ tính chất này mà chè trở thành loại nước uống được
dùng phổ biến ở các nước.
Vai trò của caféin trong các quá trình chế biến chè cho đến nay chưa
được xác định nhưng theo quan điểm của một số tác giả thì caféin có khả
năng giữ lại sự đông tụ của protein.
5. CÁC CHẤT PROTEIN
Protein là một trong các nhóm chất chủ yếu và quan trọng trong thành
phần của lá chè. Nó giữ vai trò quan trọng không những trong quá trình sinh
trưởng của cây chè mà cả đối với các quá trình chế biến chè. Đó là vì
protein tham gia cấu tạo nên phần lớn các enzym và các phản ứng enzym
lại là cơ sở của sự trưởng thành và phát triển của thực vật, trong đó bao
gồm cả lá chè tươi. Còn trong quá trình chế biến chè, protein là nguồn cung
cấp các acid amin tự do vì một phần protein bị phân giải bởi các enzym
tương ứng tạo ra các acid amin kết hợp với tanin hoặc đường trở thành các
aldehyd bay hơi góp phần tăng cường hương thơm cho chè. Tuy nhiên nếu
lượng protein trong lá chè tươi quá cao trong khi lượng tanin thấp thì có thể
ảnh hưởng xấu đến vị của chè đen vì trong quá trình chế biến chè, đặc biệt
là trong quá trình lên men, protein kết hợp với tanin và chuyển nó thành
hợp chất không tan, làm giảm lượng tanin hòa tan.
6. CÁC HỢP CHẤT HỮU CƠ
Trong lá chè tươi, người ta tìm thấy các acid hữu cơ sau đây :
Acid oxalic hòa tan 0.20 %
Acid oxalic không hòa tan 0.82 %
Acid malic 0.30 %
Acid citric 0.103%
Acid succinic 0.006%
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 8 -
Các acid hữu cơ kể trên trong các công đoạn chế biến thường có sự
thay đổi về số lượng.
7. TINH DẦU
Tinh dầu làm cho chè lên men hoặc chè thành phẩm có mùi thơm đặc
trưng riêng biệt, đồng thời, tạo cho nước chè có vị dễ chịu, tăng cường kích
thích dịch vị, giúp cho sự đồng hóa thức ăn trong cơ thể tốt hơn.
8. GLUCID
Trong lá chè có chứa hầu hết các loại đường như : glucoza, fructoza,
galactoza, maltoza, citoza, arabinoza, riboza, … Nhưng lá chè non có đặc
điểm là chứa rất ít các đường hòa tan. Hàm lượng monoza trong lá chè chỉ
chiếm 1 2% và saccaroza chiếm từ 0.5 2.5%. Trong khi đó, hàm lượng
các poly saccarit trong lá chè lên đến 10 12% và cao hơn nữa. Lượng
đường hòa tan trong lá chè luôn thay đổi, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các
đường hòa tan trong lá chè dù hàm lượng rất thấp nhưng chúng có ý nghĩa
quan trọng đối với chất lượng của chè. Trước hết, chúng góp phần điều hòa
vị chè, nhưng quan trọng hơn cả là, các đường khử dưới tác dụng của nhiệt
độ cao hoặc trong khi tác dụng với tanin, acid amin có mặt trong lá chè sẽ
tạo cho chè có hương thơm đặc trưng và ảnh hưởng đến màu sắc của nước
chè. Chẳng hạn, trong sự tác dụng tương hỗ giữa glucoza và fructoza với
acid amin phenylalanin và tanin tạo thành các aldehyd bay hơi có mùi thơm
của hoa tươi, mùi mật ong.
Ngoài ra, cần nhấn mạnh rằng, glucoza và fructoza dưới tác dụng của
nhiệt độ cao trong quá trình chế biến nhiệt cho chè sẽ tham gia vào quá trình
caramel hóa tạo cho chè có mùi cốm thơm dễ chịu.
9. HỢP CHẤT PECTIN
Hợp chất pectin thuộc nhóm hydratcarbon và là hỗn hợp phức tạp của
poly saccarit và dẫn xuất của chúng. Phần lớn các chất pectin là những chất
keo và trong những điều kiện nhất định thì chúng đông tụ lại. Theo ý kiến
của một số nhà nghiên cứu, pectin có thể ảnh hưởng lớn đến chất lượng của
chè. Một số tính chất của lá chè héo và chè vò, ví dụ độ dính của nó cũng
như độ dịu ngọt của chè thành phẩm phụ thuộc vào sự có mặt của pectin.
10. THÀNH PHẦN TRO
Thành phần các nguyên tố có trong tro của lá chè tươi và chè thành
phẩm thường dao động từ 4 7%. Còn trong lá chè già và loại chè xấu thì
thành phần tro thường cao hơn trong các lá chè non và trong các loại chè có
chất lượng cao hơn.
11. CHẤT MÀU
Trong lá chè có chứa các chất màu, nhờ đó làm cho chè có màu sắc,
chất màu thực vật gồm từ clorophin, antocian là những chất có trong phân
nhóm flavonoid và carotinoid có màu vàng cũng như các flavon và
flavoncla.
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 9 -
Ngoài ra, trong lá chè còn chứa các chất màu khác không tan trong
nước và dễ tan trong rượu, aceton, và các dung môi hữu cơ khác có trong
thành phần nhóm flavonoid (antocian, flavon, flavonoid, …). Các chất
flavonoid có màu vàng. Trong chè đã tìm thấy có chứa trên 10 chất
flavonoid và trong búp chè một lá có chứa chúng với một lượng lớn
(1.64%). Khi lá chè già đi, hàm lượng các chất flavonoid giảm xuống
(1.21%).
12. VITAMIN
Nhóm vitamin không hòa tan trong nước có trong lá chè là vitamin K
(liều lượng 300 500 đơn vị sinh lý trong 1 g chè), loại vitamin này có khả
năng làm máu đông tụ.
Ngoài ra, trong lá chè, lượng vitamin C (1-acid ascorbic) cũng có rất
nhiều nhưng hàm lượng ở các phần khác nhau của búp chè cũng không
giống nhau. Trong thời gian chế biến chè, hàm lượng acid ascorbic giảm đi
đáng kể do quá trình oxy hóa trong quá trình vò chè và lên men chè và bị
phân hủy trong quá trình sấy khô chè.
Trong lá chè, vitamin P là có giá trị hơn cả. Tanin từ lá chè có
vitamin P nên có tác dụng củng cố tốt thành các huyết quản. Ngoài ra,
vitamin P và C đóng vai trò quan trọng trong việc phòng bệnh xơ vữa động
mạch cũng như có khả năng làm cho người không bị khát nước.
13. ENZYM
Enzym là một trong những nhóm chính có trong lá chè. Phần lớn
enzym ở đây thuộc nhóm hydrolaza. Các loại enzym thủy phân thường gặp
trong lá chè cần phải kể đến là amylaza (đường phân tinh bột), invertaza
(nghịch đảo đường), proteaza (thủy phân protein), … Ngoài ra còn có enzym
thuộc nhóm enzym oxy hóa khử như các men oxy hóa.
Men oxy hóa đóng vai trò quan trọng trong quá trình lên men chè và
được coi là chất nhằm tạo cho chè những tính chất chủ yếu như : vị, mùi
tho8m và màu sắc nước pha. Các enzym này phải đảm bảo cho chu trình
biến đổi được liên tục bởi sản phẩm tạo ra của nhóm enzym này lại chính là
đối tượng tác dụng của các nhóm enzym khác. Nếu trong chu trình, những
biến đổi này bị ngưng trệ do một trong số các loại enzym nào đó (ở chỗ
không có đủ hoạt độ thích hợp) thì quá trình tạm ngưng này hoặc không đạt
được tới mức độ thích hợp này sẽ tác dụng trực tiếp với những biến đổi đặc
trưng của nguyên liệu.
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 10 -
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 11 -
CHƯƠNG III
QUY TRÌNH SẢN XUẤT CHÈ CÚC TÚI LỌC
Cúc tên khoa học là Chrysanthemum Sinense Sabine. Thành phần
gồm : Schachychin, vitamin A, vị ngọt đắng. Ngoài tạo hương thơm nó còn
chữa bệnh nhức đầu, nhiều nước mắt. Nhiệt độ bay hơi cao nên có thể sống
ở nhiệt độ 70 – 80oC.
QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT CHÈ CÚC TÚI LỌC
Chè bán thành phẩm Hương liệu
Xử lý Xử lý
Sao
Phối hương
Ướp hương
Vô bao, đóng hộp
Đóng thùng
Thành phẩm
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 12 -
I. CHUẨN BỊ CHÈ BÁN THÀNH PHẨM
Lá chè sau khi được vận chuyển về nhà máy, quá trình chế biến chè đi
qua các giai đoạn sau :
1. Làm héo
Có hai cách làm héo : làm héo tự nhiên và làm héo nhân tạo. Làm héo tự
nhiên lại có thể chia ra :
Làm héo ngoài trời : tiến hành trên các sân phơi dưới tác dụng trực
tiếp của ánh sáng mặt trời và không khí. Nhược điểm lớn của
phương pháp này là tốn nhiều công sức và phụ thuộc vào các điều
kiện khí tượng, hiện nay hầu như không nơi nào áp dụng. Thời
gian làm héo ngoài trời không vuợt quá 2 - 4 giờ .
Làm héo tự nhiên đặc biệt : tiến hành trong các phòng làm héo
chuyên dùng trong thời gian 17-24 giờ.
Làm héo nhân tạo : tiến hành trong các buồng chuyên dùng trong
các thiết bị, trong các máy, thời gian làm héo từ 2 đến 10 giờ.
a. Làm héo tự nhiên
Làm héo tự nhiên tiến hành trong các phòng chuyên dùng bố trí ở
các tầng trên của nhà máy.
Nhiệt độ tối ưu để làm héo tự nhiên là 20 - 240C. Khi độ ẩm tương
đối của không khí là 70 % . Không khí càng khô và càng nóng thì càng dễ dàng
làm héo lá chè và do đó càng rút ngắn thời gian làm héo. Thường thời gian làm
héo khoảng 10 12 giờ, nhưng tại các nhà máy ở Ấn độ và Srilanca, người ta
chủ yếu dựa vào ý kiến cho rằng, thời gian làm héo tự nhiên không nên ít hơn 18
giờ.
b. Làm héo nhân tạo
Máy làm héo tác dụng liên tục làm việc theo nguyên tắc dòng song
song. Khi sử dụng nguyên tắc này ở các băng chuyền phía trên tạo ra được chế
độ làm héo mạnh , nó dần dần yếu đi ở các băng chuyền tiếp theo . Điều đó cải
thiện được chế độ làm héo nhờ làm yếu dần chế độ nhiệt độ. Bằng các thực
nghiệm xác định được rằng, tuần hoàn không khí 5 lần thì nhiệt độ ở băng
chuyền thứ 5 giảm từ 44.80C xuống còn 320C. Độ ẩm của không khí đạt được ở
băng chuyền dưới là 70 74%, nghĩa là các băng chuyền dưới độ ẩm bay hơi
không nhiều lắm. Cần chú ý nhiệt độ không khí đưa vào làm héo không được
vượt quá 46 480C để tránh ảnh hưởng xấu đến các hoạt tính của các enzym có
trong lá chè và để đảm bảo độ làm héo đồng đều của khối chè. Việc tăng nhiệt độ
trong thời gian làm héo vượt quá nhiệt độ tối ưu sẽ làm cho chè héo không đồng
đều, nghĩa là bên cạnh những lá chè được làm héo bình thường còn có những lá
chè được làm héo quá mức và chưa được làm héo. Khi tốc độ bay hơi giảm
xuống phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau thì nhiệt độ trong bản thân lá chè tăng
lên.Tùy theo thời vụ và chất lượng của chè tươi cần phải thay đổi nhiệt độ của
không khí trong máy cũng như thời gian của quá trình. Thời gian của quá trình
vào giữa mùa hè cần kéo dài hơn so với đầu mùa và cuối mùa.
2. Giai đoạn vò chè
Mục đích chủ yếu của vò chè là làm dập và phá vỡ tế bào, dịch ép trào lên
trên bề mặt lá, tại đây nó chịu tác dụng của không khí và các enzym. Cho nên
SVTH: Nguyeãn Thò Myõ Linh - 13 -
ngay từ lúc vò đã bắt đầu quá trình lên men. Lá chè héo bị xoăn lại theo hình
xoắn ốc, điều này rất quan trọng để tạo cho nó có hìn