Thế giới đang chuyển mình với sự hợp tác sâu hơn và rộng hơn trên mọi mặt của đời sống con người, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Sự hợp tác và giao thương ngày càng dày đặc giữa các quốc gia đòi hỏi sự chặt chẽ và cẩn trọng trong các thủ tục xuất nhập khẩu, trong đó xuất xứ hàng hoá là khái niệm tối cần thiết.
Có nhiều lý do giải thích tại sao các quốc gia cần gắn nước xuất xứ cho hàng hoá. Đầu tiên là sự phù hợp với các nguyên tắc mở cửa của hệ thống thương mại, sau đó là lợi ích thương mại nội địa. Dù vì bất cứ lý do gì, kiến thức chuyên môn và việc sử dụng quy tắc xuất xứ đã tạo thành một yêu cầu cần thiết cho các chuyên gia về chính sách thương mại để hoạt động trong hệ thống thương mại đa phương.
Các nguyên nhân sau đây là một số lý do lý giải tại sao các quốc gia quan tâm đến việc xây dựng hệ thống quy tắc cho việc xác định xuất xứ hàng hoá và tại sao các quốc gia muốn biết xuất xứ của hàng hoá.
Thứ nhất, hưởng thuế quan ưu đãi. Chính sách thương mại của các quốc gia và các thoả thuận thương mại khu vực cụ thể đôi lúc có sự phân biệt. Xác định được xuất xứ của hàng hoá khiến có thể phân biệt đâu là hàng nhập khẩu được hưởng ưu đãi để áp dụng chế độ ưu đãi theo các thoả thuận thương mại đặc biệt như trong các khu vực thương mại.
Thứ hai, áp dụng thuế chống phá giá và trợ giá. Trong các trường hợp khi hàng hóa của một nước được phá giá tại thị trường nước khác, việc xác định được xuất xứ khiến các hành động chống phá giá và việc áp dụng thuế chống trợ giá trở nên khả thi.
Thứ ba, thống kê thương mại và duy trì hệ thống hạn ngạch. Việc xác định xuất xứ khiến việc biên soạn các số liệu thống kê thương mại và các xu hướng hoặc đối với một nước hoặc đối với một khu vực dễ dàng hơn.
Thứ tư, xúc tiến thương mại. Quy tắc xuất xứ được sử dụng để đẩy mạnh hàng xuất khẩu từ những nước đã thiết lập một truyền thống tốt đẹp về những lĩnh vực cụ thể.
Thứ năm, do các nguyên nhân môi trường.
Hiện đại, trên thế giới đang có nhiều chế độ ưu đãi thuế quan của các quốc gia hoặc khối khu vực kinh tế, trong đó, chế độ ưu đãi thuế quan của Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) và Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) là hai chế độ thuế quan ưu đãi cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam. Bài tiểu luận nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về các quy tắc xuất xứ của hai chế độ thuế quan thông qua việc so sánh các quy tắc xuất xứ và các mẫu chứng nhận xuất xứ (CO).
Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 phần, trong đó:
- Phần 1: Tổng quan hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) và Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
- Phần 2: So sánh sự giống và khác nhau giữa quy tắc xuất xứ theo GSP và CEPT
- Phần 3: Phân tích CO mẫu A và CO mẫu D.
43 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6479 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận So sánh sự giống và khác nhau giữa quy tắc xuất xứ theo GSP và CEPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang chuyển mình với sự hợp tác sâu hơn và rộng hơn trên mọi mặt của đời sống con người, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Sự hợp tác và giao thương ngày càng dày đặc giữa các quốc gia đòi hỏi sự chặt chẽ và cẩn trọng trong các thủ tục xuất nhập khẩu, trong đó xuất xứ hàng hoá là khái niệm tối cần thiết.
Có nhiều lý do giải thích tại sao các quốc gia cần gắn nước xuất xứ cho hàng hoá. Đầu tiên là sự phù hợp với các nguyên tắc mở cửa của hệ thống thương mại, sau đó là lợi ích thương mại nội địa. Dù vì bất cứ lý do gì, kiến thức chuyên môn và việc sử dụng quy tắc xuất xứ đã tạo thành một yêu cầu cần thiết cho các chuyên gia về chính sách thương mại để hoạt động trong hệ thống thương mại đa phương.
Các nguyên nhân sau đây là một số lý do lý giải tại sao các quốc gia quan tâm đến việc xây dựng hệ thống quy tắc cho việc xác định xuất xứ hàng hoá và tại sao các quốc gia muốn biết xuất xứ của hàng hoá.
Thứ nhất, hưởng thuế quan ưu đãi. Chính sách thương mại của các quốc gia và các thoả thuận thương mại khu vực cụ thể đôi lúc có sự phân biệt. Xác định được xuất xứ của hàng hoá khiến có thể phân biệt đâu là hàng nhập khẩu được hưởng ưu đãi để áp dụng chế độ ưu đãi theo các thoả thuận thương mại đặc biệt như trong các khu vực thương mại.
Thứ hai, áp dụng thuế chống phá giá và trợ giá. Trong các trường hợp khi hàng hóa của một nước được phá giá tại thị trường nước khác, việc xác định được xuất xứ khiến các hành động chống phá giá và việc áp dụng thuế chống trợ giá trở nên khả thi.
Thứ ba, thống kê thương mại và duy trì hệ thống hạn ngạch. Việc xác định xuất xứ khiến việc biên soạn các số liệu thống kê thương mại và các xu hướng hoặc đối với một nước hoặc đối với một khu vực dễ dàng hơn.
Thứ tư, xúc tiến thương mại. Quy tắc xuất xứ được sử dụng để đẩy mạnh hàng xuất khẩu từ những nước đã thiết lập một truyền thống tốt đẹp về những lĩnh vực cụ thể.
Thứ năm, do các nguyên nhân môi trường.
Hiện đại, trên thế giới đang có nhiều chế độ ưu đãi thuế quan của các quốc gia hoặc khối khu vực kinh tế, trong đó, chế độ ưu đãi thuế quan của Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) và Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) là hai chế độ thuế quan ưu đãi cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam. Bài tiểu luận nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về các quy tắc xuất xứ của hai chế độ thuế quan thông qua việc so sánh các quy tắc xuất xứ và các mẫu chứng nhận xuất xứ (CO).
Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 phần, trong đó:
Phần 1: Tổng quan hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) và Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
Phần 2: So sánh sự giống và khác nhau giữa quy tắc xuất xứ theo GSP và CEPT
Phần 3: Phân tích CO mẫu A và CO mẫu D.
Do những hạn chế khách quan, bài làm không tránh khỏi sai sót. Kính mong thầy giáo giúp đỡ và góp ý. Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Phương Chung
Phần I:
Tổng quan về Hệ thống ưu đãi phổ cập
và Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
1.1. Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP)
GSP (Generalized System of Preferences-GSP) là một chương trình miễn thuế nhập khẩu cho một số mặt hàng nhất định từ các nước đang phát triển, bao gồm các nước độc lập và các nước và các lãnh thổ lệ thuộc, nhằm giúp các nước này phát triển kinh tế qua nhập khẩu. Chương trình này được khởi đầu từ Luật Thương mại năm 1974, sửa đổi, của Hoa Kỳ, có hiệu lực từ 1/1/1976, đã gia hạn vài lần. Việc gia hạn sẽ lại được Tổng thống ký và công bố sau khi được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua. Chương trình GPS do Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) điều hành, và Hải quan Hoa Kỳ thực hiện xác định mặt hàng được hưởng GSP.
Danh mục hàng hoá được hưởng GSP gồm khoảng 4284 mặt hàng khác nhau theo mã thuế HTS của Hoa Kỳ. Các danh mục này được ký hiệu “A” hoặc “A*” trong cột “Đặc biệt” thuộc cột 1 của biểu thuế. Hàng hoá có các ký hiệu này được phép nhập khẩu miễn thuế vào Hoa Kỳ nếu được nhập trực tiếp từ các nước và lãnh thổ được hưởng GSP. Danh mục các nước được hưởng GSP có thể thay đổi trong thời gian hiệu lực của chương trình này.
Theo Luật Thương mại Hoa Kỳ, nhiều mặt hàng: phần lớn thuộc giày dép, dệt may, đồng hồ, một số hàng điện tử, một số sản phẩm kính, thép thường không được hưởng GSP.
Khoảng 140 nước và lãnh thổ đang phát triển được hưởng GSP (Beneficiary Developing Countries-BDC) và có thể bị loại khỏi danh sách bất cứ lúc nào qua xem xét quan hệ thương mại của nước đó với Hoa Kỳ. Một số mặt hàng từ các nước này có thể bị loại ra khỏi danh mục, nếu:
Mức độ nhập khẩu của mặt hàng đó vượt qua một trị giá USD nhất định.
Nước đó cung cấp từ 50% trở lên trong tổng nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Các chuyến hàng thương mại cần lập tờ khai hàng GSP, trong đó ghi rõ nước xuất xứ được hưởng GSP và mặt hàng đó có ký hiệu “A” trong biểu thuế nhập khẩu. Mặt hàng được hưởng GSP phải đáp ứng điều kiện:
Sản xuất tại nước được hưởng GSP: (1) hàng đó hàon toàn được nuôi, trồng, sản xuất, chế tạo tại nước được hưởng GSP, hoặc (2) về cơ bản được chuyển hoá thành một mặt hàng mới khác tại nước được hưởng GSP.
Hàng phải được nhập khẩu trực tiếp từ nước được hưởng GSP vào lãnh thổ hải quan của Hoa Kỳ.
Chi phí hoặc giá trị vật liệu sản xuất tại nước được hưởng GSP và/hoặc chi phí trực tiếp gia công hàng tại nước đó (gồm cả lao động trực tiếp, nhuộm, đúc, dụng cụ, chiết khấu máy móc, nghiên cứu và phát triển, giám định, thử nghiệm, v.v...) phải chiếm ít nhất 35% trị giá hàng. Các chi phí kinh doanh, chi phí quản lý, lương lao động gián tiếp, lợi nhuận, chi phí thương mại chung, như bảo hiểm, quảng cáo, lương người bán hàng, v.v... không được coi là chi phí trực tiếp gia công sản phẩm.
1.2. Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
CEPT có nghĩa là Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung do tất cả các nước thành viên Asean kí kết nhằm tăng cường hợp tác kinh tế để tận dụng đến mức tối đa tiềm năng của khu vực trong thương mại và phát triển thông qua việc tự do hoá thương mại trên cơ sở ưu đãi. Thông qua việc các quốc gia ký kết hiệp định CEPT, hàng hoá xuất xứ từ các nước thành viên Asean được hưởng mức thuế suất ưu đãi.
Hiệp định này quy định:
Một sản phẩm được coi là có xuất xứ từ các Quốc gia thành viên ASEAN nếu trong thành phần của sản phẩm đó có chứa ít nhất 40% hàm lượng có xuất xứ từ bất cứ một Quốc gia thành viên ASEAN nào.
Tất cả các sản phẩm chế tạo, bao gồm hàng tư liệu sản xuất và nông sản chế biến sẽ nằm trong Chương trình CEPT.
Các Quốc gia thành viên đã thực hiện cắt giảm thuế từ 20% và thấp hơn xuống 0-5% đối với các sản phẩm đã được thoả thuận, mặc dù đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), vẫn sẽ được hưởng các ưu đãi. Các Quốc gia thành viên có mức thuế quan ở mức thuế MFN là 0-5%, sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ theo Hiệp định này và cũng được hưởng các ưu đãi.
Các sản phẩm đã đạt tới hoặc đang có mức thuế là 20% hoặc thấp hơn, sẽ nghiễm nhiên được hưởng các ưu đãi.
Các Quốc gia thành viên thoả thuận về lịch trình cắt giảm thuế quan ưu đãi có hiệu lực như sau:
Việc cắt giảm các mức thuế quan hiện hành xuống 20% sẽ được công bố vào lúc bắt đầu thực hiện chương trình. Khuyến khích các Quốc gia thành viên áp dụng mức cắt giảm hàng năm theo công thức (X-20)%/5, trong đó X là mức thuế quan hiện hành của mỗi Quốc gia thành viên.
Việc cắt giảm tiếp mức thuế từ 20% hoặc thấp hơn sẽ được thực hiện trong vòng 5 năm. Mức cắt giảm tối thiểu cho mỗi lần cắt giảm là 5% lượng phải cắt giảm. Chương trình cắt giảm thuế quan sẽ do từng Quốc gia thành viên quyết định và được thông báo khi bắt đầu chương trình.
Đối với các sản phẩm có mức thuế hiện hành là 20% hoặc thấp hơn vào ngày 1/1/1993, các Quốc gia thành viên sẽ quyết định chương trình cắt giảm thuế quan, và thông báo khi bắt đầu chương trình về lịch trình cắt giảm thuế.
Phần II:
So sánh sự giống và khác nhau
giữa quy tắc xuất xứ của GSP và CEPT
Mỗi quy tắc xuất xứ, dù là của GSP hay CEPT, đều nhằm mục đích đảm bảo những lợi ích của chế độ ưu đãi thuế quan chỉ được dành cho những sản phẩm mà thực sự có được do thu hoạch, sản xuất, gia công hoặc chế biến ở những nước xuất khẩu được hưởng. Tuy nhiên, giải thích cho sự khác biệt giữa phạm vi và đối tượng, mỗi hiệp định tồn tại những điểm khác trong những quy tắc tương đồng, và cả những quy tắc mà chỉ riêng mỗi hiệp định mới cơ.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, nếu như ở CEPT, tất cả các nước thành viên Asean áp dụng giống nhau, ngoại trừ một số điểm tuỳ chọn, thì đối với GSP, mỗi nước lại có chế độ GSP riêng. Phần II đã cố gắng tổng hợp và đưa ra những điểm chi tiết nhất đối với từng đối tượng so sánh.
Để tiện so sánh và đối chiếu, phần II được chia thành 2 mục nhỏ: trong mục 2.1, những quy tắc tương đồng của quy định về xuất xứ giữa hai hiệp định sẽ được phân tích, chẳng hạn về quy tắc về tiêu chuẩn xuất xứ, quy tắc về vận chuyển; mục 2.2 nêu lên những quy tắc tồn tại ở hiệp định này, nhưng không tồn tại (dưới dạng quy tắc) ở hiệp định kia.
2.1. Những quy tắc tương đồng
2.1.1. Tiêu chuẩn xuất xứ
Hai quy định đều chia sản phẩm xuất khẩu từ một nước được hưởng thành hai nhóm, tuy thế, cách đặt tên và định nghĩa có sự khác biệt.
GSP chia sản phẩm làm hai nhóm:
Sản phẩm xuất xứ toàn bộ: Những sản phẩm được sinh trưởng hoàn toàn, được lấy từ đất hoặc được thu hoạch trong nước xuất khẩu, hoặc được sản xuất chỉ từ những sản phẩm này. Những sản phẩm như vậy có xuất xứ GSP bởi vì hoàn toàn không sử dụng các bộ phận hay nguyên phụ liệu nhập khẩu, hoặc không rõ xuất xứ.
Sản phẩm có thành phần nhập khẩu: Những sản phẩm được làm từ nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập khẩu, có nghĩa là những sản phẩm được sản xuất toàn bộ hoặc một phần từ nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập khẩu vào nước hưởng ưu đãi hoặc từ những nguyên liệu nguyên liệu không rõ xuất xứ. Những sản phẩm này có xuất xứ tại nước được hưởng chỉ khi chúng đã được "gia công hoặc chế biến đầy đủ" tại nước xuất khẩu được hưởng.
Theo cách phân chia cơ bản nói trên, mỗi chế độ GSP sẽ quy định những quy định hoặc định nghĩa cụ thể về "gia công chế biến đầy đủ" phải được đáp ứng nếu sản phẩm được hưởng chế độ thuế quan GSP. Quy định về "gia công chế biến đầy đủ" đã được thống nhất và hài hoà hoá giữa sáu (6) nước cho hưởng ưu đãi Đông Ân, bao gồm: Bun-Ga-Ry, Cộng hoà Séc, Hung-Ga-Ry, Ba Lan, Liên Bang Nga và Slô-va-ki-a.
Tương tự như vậy, CEPT quy định: Các hàng hoá thuộc diện CEPT được nhập khẩu vào một Nước Thành viên từ một Nước Thành viên khác được vận tải trực tiếp theo nghĩa của Quy tắc 5 của Quy chế này, sẽ đủ điều kiện được hưởng ưu đãi nếu chúng đáp ứng các yêu cầu xuất xứ theo một trong các điều kiện sau đây:
Hàng hoá có xuất xứ thuần tuý: được sản xuất hoặc thu hoạch toàn bộ tại các Nước Thành viên xuất khẩu
Hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý: không được sản xuất hoặc thu hoạch toàn bộ tại Nước Thành viên xuất khẩu, nhưng pảhi đủ điều kiện thoả mãn yêu cầu về hàm lượng Asean và các yêu cầu khác đối với hàng háo có xuất xứ không thuần tuý như hiệp định CEPT quy định.
2.1.2. Quy tắc sản phẩm có xuất xứ toàn bộ (GSP) và Quy tắc hàng hoá có xuất xứ thuần tuý (CEPT)
Theo GSP và cả CEPT, tiêu chuẩn xuất xứ toàn bộ được giải thích một cách tuyệt đối. Một thành phần nhỏ nhất của nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập khẩu, hoặc xuất xứ của chúng không xác định được, sẽ làm cho sản phẩm hoàn thành liên quan mất tính chất "xuất xứ toàn bộ".
Ví dụ: tượng gỗ làm từ gỗ "xuất xứ toàn bộ" tại một nước hưởng ưu đãi, nhưng được đánh bóng bằng sáp nhập khẩu, không có "xuất xứ toàn bộ" bởi vì đã sử dụng sáp nhập khẩu.
GSP quy định: tất cả các nước cho hưởng đều chấp nhận những loại hàng hoá sau đây là có "xuất xứ toàn bộ" ở một nước được hưởng:
Khoáng sản lấy từ lòng đất hoặc từ đáy biển; hoặc, đối với Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, khoáng sản khai thác trong lãnh thổ hoặc từ thềm lục địa nước được hưởng.
Rau quả thu hoạch ở nước được hưởng;
Động vật sống sinh trưởng ở nước được hưởng;
Những sản phẩm có được do săn bắn hoặc đánh bắt ở nước được hưởng.
Những sản phẩm từ đánh bắt xa bờ hoặc những sản phẩm khác lấy từ biển cả bởi tàu thuyền của nước được hưởng; và đối với Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, bởi tàu thuyền do nước được hưởng thuê;
Những sản phẩm được làm trên tàu chế biến - chỉ từ những sản phẩm nói tại mục (f) nói trên; và đối với Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, bởi tàu thuyền do nước được hưởng thuê;
Những sản phẩm đã qua sử dụng thu thập tại nước được hưởng chỉ dùng cho tái chế nguyên liệu thô;
Phế liệu và phế thải từ hoạt động sản xuất diễn ra tại nước được; và
Những sản phẩm có tại nước được hưởng chỉ từ những sản phẩm nói tại mục (a) đến mục (i) nói trên.
Đối với CEPT, quy tắc 1 quy định tương tự như ở GSP, tuy câu chữ có thay đổi không đáng kể.
2.1.3. Quy tắc sản phẩm có thành phần nhập khẩu (GSP) và Quy tắc hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý (CEPT)
Hai quy tắc tương ứng này ở hai hiệp định có đôi chút khác biệt.
Nếu như ở GSP mỗi nước có định nghĩa riêng về sản phẩm có thành phần nhập khẩu, thì ở CEPT, quy định được áp dụng thống nhất cho tất cả các thành viên. Cũng vì lẽ đó, mặc dù có điểm tương đồng trong việc định nghĩa theo tỷ lệ phần trăm và gia công hàng hoá, thì quy định của CEPT cho thấy sự thống nhất hơn. Cụ thể như sau:
Đối với CEPT, hàng hoá xuất xứ không thuần tuý:
(i) Hàng sẽ được coi là xuất xứ từ các Nước Thành viên ASEAN, nếu ít nhất 40% hàm lượng xuất xứ từ bất cứ Nước Thành viên nào.
(ii) Theo tiểu mục (i) ở trên, nhằm mục đích thực hiện các quy định của Quy tắc 1 (b), các sản phẩm được chế tạo hoặc gia công mà có tổng giá trị nguyên phụ liệu được sử dụng có xuất xứ từ các nước không phải là thành viên ASEAN hoặc có xuất xứ không xác định được không vượt quá 60% giá FOB của sản phẩm được sản xuất hoặc chế biến và có quá trình sản xuất cuối cùng được thực hiện trên lãnh thổ Nước xuất khẩu là Thành viên.
Giá trị nguyên phụ liệu không xuất xứ từ ASEAN sẽ là:
Giá CIF của hàng hoá tại thời điểm nhập khẩu
Giá xác định ban đầu của sản phẩm có xuất xứ không xác định được tại lãnh thổ Nước Thành viên nơi thực hiện qúa trình gia công chế biến.
Công thức 40% hàm lượng ASEAN như sau:
Giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước không phải là thành viên ASEAN
+
Giá trị nguyên phụ liệu có xuất xứ không xác định được
-----------------------------------------------------------------------------------
x 100% ≤ 40%
Giá FOB
Đối với GSP, khái niệm "gia công hoặc chế biến đầy đủ" được định nghĩa theo nhiều cách. Tuy nhiên, có hai tiêu chí chính dùng để xác định, mỗi tiêu chí này được một số nước sử dụng. Đó là "tiêu chuẩn gia công" và "tiêu chuẩn tỷ lệ phần trăm".
Tiêu chuẩn gia công
Tiêu chuẩn này được áp dụng bởi Cộng đồng Châu Âu, Nhật, Na Uy và Thuỵ Sĩ.
Theo nguyên tắc chung của tiêu chuẩn này, nguyên liệu, bộ phận hay thành phần nhập khẩu được coi là đã gia công chế biến đầy đủ khi thành phẩm được xếp vào hạng mục HS (1) (Hệ thống hài hoà) 4 số khác với hạng mục của tất cả các nguyên liệu, bộ phận hay thành phần nhập đã sử dụng (thường được gọi là quy tắc "thay đổi hạng mục thuế quan" - CTH rule). Tuy nhiên, có rất nhiều sản phẩm việc thay đổi hạng mục thuế quan thường không đảm bảo đã gia công hoặc chế biến đầy đủ (hoặc, nói cách khác, trong khi việc gia công hoặc chế biến đầy đủ có thể được tiến hành, trong một số trường hợp, chúng không liên quan đến việc thay đổi hạng mục thuế quan). Do vậy, các nước cho hưởng đã đưa ra một danh mục các hoạt động gia công hoặc chế biến phải thực hiện đối với nguyên liệu không có xuất xứ để sản phẩm cuối cùng được coi là có xuất xứ. Danh mục này chỉ bao gồm những sản phẩm mà đối với mỗi sản phẩm một số điều kiện nhất định phải được đáp ứng thay cho yêu cầu về thay đổi hạng mục thuế quan.
Sau đây là một số ví dụ:
Cộng đồng Châu Âu:
Các quy định xuất xứ ưu đãi của Cộng đồng Châu Âu gần đây nhất được quy định trong một Danh mục đơn (Single List). Những điều kiện nêu trong Danh mục đơn này như sau:
(a) Yêu cầu những nguyên liệu ban đầu sử dụng trong quá trình sản xuất phải có xuất xứ từ nước xuất khẩu được hưởng.
Ví dụ: đối với rau quả ăn được thuộc Chương 8, Danh mục yêu cầu tất cả các nguyên liệu thuộc Chương 7 được sử dụng đều phải có xuất xứ (toàn bộ).
(b) Quy định chỉ có một số nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ có thể được sử dụng như là nguyên liệu ban đầu;
Ví dụ: chế phẩm từ thịt thuộc Chương 16, Danh mục đòi hỏi phải sử dụng động vật thuộc Chương 1 làm nguyên liệu ban đầu, có nghĩa là sử dụng thịt nhập khẩu sẽ khiến sản phẩm cuối cùng bị coi không có xuất xứ.
(c) Tổng hợp cả hai điều kiện (a) (b) trên;
Ví dụ: chế phẩm từ cá thuộc Chương 16, Danh mục quy định phải sản xuất từ động vật thuộc Chương 1 làm nguyên liệu ban đầu; tuy nhiên, tất cả được sử dụng phải có xuất xứ.
(d) Yêu cầu các nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được sử dụng đã phải được chế biến ở mức độ thấp bình thường;
Ví dụ: đối với hầu hết các sản phẩm may mặc và đồ phụ trợ, không phải là đan hoặc móc, thuộc Chương 62, Danh mục quy đinh phải sản xuất từ sợi đã xe; điều này có nghĩa là sử dụng vải nhập khẩu sẽ không có được xuất xứ cho sản phẩm cuối cùng.
(e) Quy định nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được sử dụng không vượt quá một tỷ lệ phần trăm nhất định so với giá xuất xưởng của thành phẩm;
Ví dụ: sản phẩm plastic thuộc các hạng mục 3922 đến 3926, Danh mục quy định phải đựơc làm ra mà trong đó trị giá của các nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được sử dụng không vượt quá 50% trị giá xuất xưởng của sản phẩm.
(f) Cho phép sử dụng nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ có cùng hạng mục HS với sản phẩm xuất khẩu;
Ví dụ: đối với sản phẩm cao su cứng hạng mục 4017, Danh mục cho phép sản xuất từ nguyên liệu cao su cứng như là nguyên liệu ban đầu mà có cùng hạng mục 4017.
Đối với điều kiện quy định việc sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ không được vượt quá một tỷ lệ nhất định so với giá sản phẩm (xem mục e nói trên), việc tính toán các trị giá có thể tiến hành như sau:
- Trị giá nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được xác định là trị giá hải quan tại thời điểm nhập khẩu vào nước cho hưởng hoặc, nếu không biết hoặc không thể xác định được, là giá xác định đầu tiên trả cho chúng tại nước đó;
- Trị giá của sản phẩm cuối cùng là giá xuất xưởng của sản phẩm đó (đối với Nhật, là giá F.O.B), trừ đi mọi khoản thuế nội địa được hoàn trả khi sản phẩm được xuất khẩu. Giá này là giá trả cho nơi tiến hành quá trình gia công hoặc chế biến cuối cùng, với điều kiện giá đó bao gồm giá trị của tất cả các nguyên liệu sử dụng. Giá F.O.B bao gồm tất cả các chi phí phát sinh tại nước sản xuất, đặc biệt là chi phí vận chuyển từ nhà máy đến biên giới hoặc cảng và mọi chi phí và lợi nhuận của giao dịch buôn bán trung gian tại nước đó.
- Trị giá hải quan là trị giá hải quan xác định theo Hiệp định 1994 về thi hành Điều VII của GATT (Hiệp định WTO về Trị giá Hải quan).
Nhật
Danh mục đơn của Nhật cũng có những quy định như quy tắc thay đổi hạng mục thuế quan, tiêu chuẩn phần trăm và tiêu chuẩn gia công hoặc chế biến nhất định. Kể từ năm 1993, Nhật đã loại bỏ quy định áp dụng cho sản phẩm thuộc Chương 62, theo đó những sản phẩm này được hưởng GSP thậm chí khi chúng được làm từ vải nhập khẩu.
Tiêu chuẩn tỷ lệ phần trăm
Tiêu chuẩn này được sử dụng ở các nước Úc, Canada, Niu-Di-Lân, Mỹ, Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slôvakia. Giữa các nước Bungary, Cộng Hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slôvakia, tiêu chuẩn này đã được thống nhất, hài hoà hoá hoàn toàn.
Các nước Canada, Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga quy định một tỷ lệ phần trăm tối đa cho trị giá nguyên liệu, bộ phận và thành phần nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ được sử dụng. Các nước Úc, Niu-Di-Lân và Mỹ quy định một tỷ lệ phần trăm tối thiểu cho trị giá nguyên liệu nội địa và chi phí sản xuất khi sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Sau đây là một số chi tiết về tiêu chuẩn