Lãi suất luôn được coi là một biến số nhạy cảm đối với đời sống kinh tế. Nó tác động trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể kinh tế, ảnh hướng rất lớn đến lợi nhuận của các nhà kinh doanh tài chính, quyết định hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đã có rất nhiều các cuộc nghiên cứu, tranh luận và bàn cãi về lãi suất, và diển biến của lãi suất được đưa tin hầu như hàng ngày trên các bản tin, các báo, tạp chí và tập san chuyên ngành. Lãi suất thực sự là một vấn đề nóng bỏng thu hút được sự quan tâm của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các nhà kinh doanh trong thị trường tài chính.
Bàn về vấn đề lãi suất, chúng ta không thể phủ nhận lãi suất là một công cụ sắc bén trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Song, việc sử dụng công cụ này cũng giống như sử dụng một con dao hai lưỡi. Muốn điều hành nền kinh tế có hiệu quả, đòi hỏi phải nắm bắt, nghiên cứu kỹ lưỡng lãi suất, nếu không nó sẽ đem lại những kết quả nằm ngoài dự kiến. Đặc biệt đối với Việt Nam, vai trò của lãi suất ngày càng trờ nên quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong giai đoạn đất nước ta tiến hành công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Nhưng việc sử dụng công cụ này của chúng ta đã thực sự hiệu quả chưa? Trong khoảng một năm trờ lại đây, lãi suất đã thực sự trở thành một trong những vấn đề cấp thiết hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam. Và hiện nay, việc dự đoán cũng như kiểm soát sự biến động của lãi suất là vô cùng khó khăn.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của lãi suất và tính thời sự của vấn đề này ở Việt Nam, chúng em làm bài tiểu luận nghiên cứu về đề tài: “Sự biến động lãi suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012”.
Đối tượng ngiên cứu của đề tài: Lãi suất ở Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ cuối năm 2010 đến tháng 2 năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tổng hợp.
Mục tiêu nghiên cứu: Đưa ra dự báo tình hình lãi suất năm 2012.
Kết cấu của tiểu luận: Ngoài lời mở đầu và kết luận, tiểu luận bao gồm ba chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về lãi suất.
Chương 2: Thực trạng tình hình lãi suất năm 2011.
Chương 3: Dự báo lãi suất năm 2012.
24 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7415 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự biến động lãi suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất luôn được coi là một biến số nhạy cảm đối với đời sống kinh tế. Nó tác động trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể kinh tế, ảnh hướng rất lớn đến lợi nhuận của các nhà kinh doanh tài chính, quyết định hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đã có rất nhiều các cuộc nghiên cứu, tranh luận và bàn cãi về lãi suất, và diển biến của lãi suất được đưa tin hầu như hàng ngày trên các bản tin, các báo, tạp chí và tập san chuyên ngành. Lãi suất thực sự là một vấn đề nóng bỏng thu hút được sự quan tâm của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các nhà kinh doanh trong thị trường tài chính.
Bàn về vấn đề lãi suất, chúng ta không thể phủ nhận lãi suất là một công cụ sắc bén trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Song, việc sử dụng công cụ này cũng giống như sử dụng một con dao hai lưỡi. Muốn điều hành nền kinh tế có hiệu quả, đòi hỏi phải nắm bắt, nghiên cứu kỹ lưỡng lãi suất, nếu không nó sẽ đem lại những kết quả nằm ngoài dự kiến. Đặc biệt đối với Việt Nam, vai trò của lãi suất ngày càng trờ nên quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong giai đoạn đất nước ta tiến hành công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Nhưng việc sử dụng công cụ này của chúng ta đã thực sự hiệu quả chưa? Trong khoảng một năm trờ lại đây, lãi suất đã thực sự trở thành một trong những vấn đề cấp thiết hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam. Và hiện nay, việc dự đoán cũng như kiểm soát sự biến động của lãi suất là vô cùng khó khăn.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của lãi suất và tính thời sự của vấn đề này ở Việt Nam, chúng em làm bài tiểu luận nghiên cứu về đề tài: “Sự biến động lãi suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012”.
Đối tượng ngiên cứu của đề tài: Lãi suất ở Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ cuối năm 2010 đến tháng 2 năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tổng hợp.
Mục tiêu nghiên cứu: Đưa ra dự báo tình hình lãi suất năm 2012.
Kết cấu của tiểu luận: Ngoài lời mở đầu và kết luận, tiểu luận bao gồm ba chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về lãi suất.
Chương 2: Thực trạng tình hình lãi suất năm 2011.
Chương 3: Dự báo lãi suất năm 2012.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
KHÁI NIỆM LÃI SUẤT
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng hay năm). Hay ta có thể hiểu một cách đơn giản như sau: Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi suất là giá mà người đi vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Diễn biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của cá nhân như chi tiêu hay để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng.
PHÂN LOẠI LÃI SUÂT
Dưới đây là một số cách phân loại lãi suất dựa theo những tiêu chí khác nhau:
Căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng
Lãi suất tiền gửi ngân hàng: Là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào loại tiền gửi (nội tệ hay ngoại tệ), loại tài khoản (tiền gửi thanh toán hay tiền gửi tiết kiệm), loại thời hạn (không kỳ hạn, ngắn hạn hay dài hạn), quy mô tiền gửi.
Lãi suất tín dụng ngân hàng: Là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng (người cho vay). Lãi suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều mức tùy theo loại tiền, thời hạn, phương thức, mục đích của tiền vay.
Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khách hàng.
Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng.
Lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng trung ương ấn định và thông thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp cần hạn chế khả năng mở rộng tín dungj của hệ thống ngân hàng, nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ngân hàng trung ương có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung ương.
Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau ở tùy từng nước nhưng đều được hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
Căn cứ vào giá trị của tiền lãi
Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ. Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng tín dụng và ghi rõ trên công cụ nợ.
Lãi suất thực: Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát. Lãi suất thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được.
Lãi suất thực trả: Lãi suất ghi trên hợp đồng thường là tỷ lệ %/năm, tuy nhiên việc trả lãi lại có thể diễn ra định kỳ hàng tháng, quý,…, do đó, so với mức lãi suất ghi trên hợp đồng thì mức lãi suất thực trả sẽ cao hơn mức lãi suất ghi trên hợp đồng.
Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
Lãi suất cố định: Là lãi suất được quy định cố định trong suốt thời hạn vay. Nó có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước nhưng nhược điểm là bị ràng buộc vào một mức lãi suất nhất định trong một khoảng thời gian dù cho lãi suất thị trường đã thay đổi.
Lãi suất thả nổi: Là lãi suất được quy định là có thể lên xuống theo lãi suất thị trường trong thời hạn tín dụng. Nó vừa chứa đựng cả rủi ro lẫn lợi nhuận. Khi lãi suất tăng lên thì người đi vay bị thiệt trong khi người cho vay được lợi và ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống.
Căn cứ vào loại tiền cho vay
Lãi suất nội tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ
Lãi suất ngoại tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ.
Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế
Lãi suất trong nước (Lãi suất địa phương): Là lãi suất áp dụng cho các hợp đồng tín dụng trong một quốc gia.
Lãi suất quốc tế: Là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng quốc tế.
Các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất của thị trường quốc gia nào thì lãi suất của quốc gia đó trở thành lãi suất quốc tế.
VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt Nam, trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích lũy và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế. Việc đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, và sử dụng hiệu quả vốn ngoài nước là rất quan trọng trong chiến lược công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích lũy cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể:
Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (Đối với cả tiền gửi và tiền vay).
Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất thấp, các doanh nghiệp có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại, khi lãi suất cao thì họ sẽ cân nhắc kỹ hơn việc đầu tư mở rộng.
Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán hay gửi tiền vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị định trệ, hàng hóa ứ đọng và hạ giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất (vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư), sự chênh lệch đó sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
Có thể nói rằng đầu tư và lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhâp của mỗt hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hóa lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hóa nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn; khi lãi suất cao sẽ đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động suất khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì tỷ giá tăng. Khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu: Khi lãi suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá đối đoái cao hơn làm hàng hóa của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn và hàng hóa nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.
Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn so với các quốc gia khác.
Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát. Fishes đã chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát. Cụ thể là việc tăng lãi suất sẽ thu hẹp được lượng tiền trong lưu thông, từ đó lạm phát được kìm chế.
Tuy nhiên, việc dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì nó sẽ làm giảm đầu tư, tổng cầu và sản lượng. Do vậy phải áp dụng kết hợp với các công cụ khác một cách có hiệu quả.
Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường cho thấy giá cả đóng vai trờ cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu từ vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản nào đó, chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét việc đầu tư này có mang lại lợi nhuận hay không và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Nói cách khác, khi quyết định đầu tư, ta phải quan tâm tới chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại với số tiền vay phải trả. Khi chênh lệch này là dương thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó, đó là sự phân bổ có hiệu quả.
Vai trò của lãi suất đối với Ngân hàng thương mại(NHTM)
Hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của NHTM là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của mình. Với phương châm: “ đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhãn rỗi trong các doanh nghiệp và hộ gia đình để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu dùng khác của người dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp thì không thể khuyến khích các danh nghiệp và hộ gia đình gửi tiền vào, dẫn đến NHTM không đủ vốn đề đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có lãi hoặc lãi quá thấp sẽ thi hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động để gửi vốn vào ngân hàng.
Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM và khách hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triền và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các NHTM.
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ LÃI SUẤT NĂM 2011
Năm 2010 đã để lại vô vàn khó khăn, đặc biệt là những bất ổn về kinh tế vĩ mô cho năm 2011. Kinh tế thế giới sau hai năm lâm vào suy thoái đã phục hồi trở lại nhưng không vững chắc, và không đồng đều giữa các khu vực. Lạm phát và giá cả hàng hóa có xu hướng tăng cao, thị trường tài chính thế giới biến động phức tạp. Khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng Euro lan rộng, nợ công ở nhiều nền kinh tế chủ chốt tăng cao tới mức nguy hiểm. Thêm vào đó là đồng đô-la Mỹ biến động mạnh, giá vàng tăng cao ký lục. Những diễn biến kinh tế, tài chính thế giới nêu trên tác động không nhỏ tới diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước cộng hưởng với những yếu kém nội tại làm cho bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2011 không mấy sáng sủa, đặc biệt là cú sốc về lãi suất.
Quý I năm 2011
Vào khoảng hơn một tháng cuối năm 2010, lãi suất đồng Việt Nam liên tục biến động theo chiều hướng tăng. Lãi suất huy động VND đã tăng vọt từ 11-11.5% lên đến trên 17%/ năm ở một số ngân hàng thương mại với những kỳ hạn ngắn. Đồng thời lãi suất cho vay VND cũng leo thang từ 13-14% lên 19-21%/ năm tùy từng loại khoản vay.
Sang đến quý I năm 2011, lãi suất huy động vốn VND đã trở nên ít biến động hơn so với cuối năm 2010 và phổ biến ở mức 13.5- 14%/năm, lãi suất cho vay tăng khoảng 1-1.5%/ năm và duy trỳ ở mức bình quân là 16.23%/ năm: lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 14-16%/ năm, lĩnh vực phi sản xuất là 18-22%/ năm.
Ngày 3/3, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định lãi suất huy động vốn tối đã bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Như vậy, cam kết thực hiện trần lãi suất tháng 12/2010 của các ngân hàng thương mại qua giám sát thực hiện của Ngân hàng Nhà nước đã chính thức được thực hiện cụ thể bằng một văn bản quy phạm pháp luật. Theo thông tư này, tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND của các tổ chức (trừ các tổ chức tín dụng) và cá nhân bao gồm các khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/ năm; riêng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND không vượt quá 14.5%/ năm.
Đầu năm 2011, thị trường lãi suất USD bắt đầu nóng lên. Từ khoảng giữa tháng 1, các ngân hàng đều nâng lãi suất huy động USD lên mức 5.3- 6.24%/ năm, tăng khoảng 0.4- 1% so với cuối năm 2010. Cụ thể là: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Tây (Western Bank) 5,5%/ năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), 5,3%/ năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thương Tín (VietBank) 6%/ năm, cao nhất là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt (Navibank) với 6,24%/ năm.
Việc tăng lãi suất huy động USD có nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ nhu cầu vay vốn bằng USD ở mức cao. Việc chênh lệch lăi suất cho vay bằng VND và USD có thể được xem là nguyên nhân chủ yếu của nhu cầu này. Các doanh nghiệp vay USD chỉ phải trả lãi 6-7%/ năm, nhưng khi vay bằng VND, họ phải trả lãi lên đến 20-22%/ năm. Thêm vào đó, các ngân hàng thương mại cũng thu được lợi nhuận từ tỷ giá và lãi suất, nên càng muốn thu hút USD.
Ngày 8/3/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng. Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng là 12,0%/ năm, lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một số loại lãi suất điều hành. Lần trước, ngày 17/2, mức tăng lãi suất tái cấp vốn là từ 9%/năm lên 11%/năm.Trong lần điều chỉnh này, lãi suất tái chiết khấu được tăng mạnh, từ 7%/năm lên 12%/năm. Như vậy. ngay từ đầu năm, NHNN đã tăng các lãi suất cơ bản, thể hiện rõ quyết tâm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Trong những ngày cuối Quý I/2011, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng và giao dịch ở mức khoảng 16-18%/năm, chủ yếu kỳ hạn dưới 1 tháng; lãi suất 1 tuần ở mức 18-20%/năm. Nguyên nhân là tính đến cuối tháng 3/2011, nợ xấu toàn hệ thống tăng cao so với cuối năm 2010. Đặc biệt, nợ nhóm 3 tăng khoảng 38%, nợ nhóm 4 tăng gần 30%, nợ nhóm 5 tăng 12%. Tính thanh khoản của hệ thống giảm do không thu hồi được nợ.
Quý II năm 2011
Ngay trong những ngày đầu tháng 4/2011, thị trường bắt đầu chứng kiến cuộc đua tăng lãi suấttiền không kỳ hạn của hàng loạt các ngân hang. Và một hiện tượng mới đã xuất hiện trên thị trường lãi suất chỉ ít ngày sau khi NHNN ban hành quy định các khoản tiền rút vốn trước hạn chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn thay vì để các ngân hang tự quyết như trước: Lãi suất huy động vốn không kỳ hạn bị đẩy lên những mức rất cao (9-10%) thay cho mức 2-3% như trước đây. Quyết định này vô tình đẩy thị trường huy động vào một cuộc đua mới, gây rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng. Bởi nguồn vốn không kỳ hạn vốn chiếm một tỉ trọng khá lớn trong cơ cấu huy động của một số ngân hàng, thậm chí có thể lên tới 10-40% tổng nguồn vốn huy động vì thường là khoản tiền gửi thanh toán với giá trị lớn của các doanh nghiệp. Diễn biến này vào thời điểm ấy đã đưa đến quan ngại rằng cuộc đua lãi suất không kỳ hạn có thể mang đến những bất ổn cho thị trường tiền tệ.
Trong khi đó, động thái tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng lên đến 13% kể từ đầu tháng 4, từ mức 12% trước đó cũng đã tạo nên những tác động khác. Chưa kể đây là lần thứ ba NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn với tổng mức điều chỉnh là 4%, từ 9% lên 13%. Việc tăng lãi suất này đã có tác động tiêu cực tới mặt bằng lãi suất trong ngắn hạn, là yêu tố gây mất ổn định thị trường tiền tệ, dù rằng về trung và dài hạn sẽ góp phần nâng cao việc quản trị thanh khoản trong toàn hệ thống ngân hàng.
Đến ngày 29/4, NHNN đã công bố quyết định điều chỉnh các lãi suất điều hành quan trọng là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Kể từ ngày 1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm thay cho mức 13%/năm áp dụng từ ngày 1/4. Đây được coi là một thông điệp khác