Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là một trong các công cụ được Ngân hàng nhà nước 
(NHNN) sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. NVTTM được chính thức sử 
dụng để điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ năm 2000 theo Quyết định số 
85/2000/QĐ - NHNN14 ngày 09/3/2000.
Sau 7 năm chính thức hoạt động, NHNN đã từng bước đưa hoạt động nghiệp vụ thị trường 
mở (NVTTM) phù hợp thông lệ quốc tế và điều kiện thị trường tiền tệ trong từng thời kỳ. 
Đến nay, hoạt động NVTTM đã trở thành một trong những công cụ quan trọng bậc nhất 
của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng của doanh số giao dịch qua thị trường hàng năm (từ 
1.903,5 tỷ đồng năm 2000 đến năm 2006 là 103.634,77 tỷ đồng), số lượng các tổ chức 
tham gia cũng tăng lên đáng kể (năm 2000 có 20 NHTM tham gia giao dịch, đến năm 2006 
có 35 NHTM tham gia). Ngoài các ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh còn có các 
NHTM cổ phần, các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Tuy nhiên, trong điều hành NVTTM vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc, đó là: 
Hoạt động này chủ yếu chịu sự chi phối của 4 ngân hàng thương mại nhà nước; Việc dự 
báo vốn khả dụng để đưa ra kiến nghị cho nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn nhiều khó 
khăn, kết quả dự báo vốn khả dụng chủ yếu mang tính ngắn hạn; Hiện tại các thủ tục về 
đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá, thủ tục về lập hợp đồng vẫn còn khá phức tạp; Vẫn còn bất 
cập trong đặt thầu, xét thầu; Đôi khi vẫn phải áp dụng lãi suất chỉ đạo trong các phiên giao 
dịch; Các giao dịch qua mạng chưa được đơn giản hoá 
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu thực trạng sử dụng NVTTM trong thực thi chính 
sách tiền tệ ở Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp giúp NHNN vận hành tốt công cụ 
này là hết sức cần thiết.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4032 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH 
 KHOA SAU ĐẠI HỌC 
 TIEÅU LUAÄN MOÂN THÒ TRÖÔØNG TAØI CHÍNH 
 Đề tài: 
 SỬ DỤNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 
TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 
 QUỐC GIA ÔÛ VIEÄT NAM HIỆN NAY 
 GVHD: GS. NGUYỄN ĐĂNG DỜN 
 HVTH: NHÓM 1 
 Nguyễn Trúc Anh 
 Đặng Quỳnh Anh 
 Nguyễn Thị Thanh 
 Nguyễn Tình Thương 
 Phạm Thị M ộng Linh 
 Nguyễn Thị Thu Thủy 
 Võ Thị Ái Trưng 
 Lớp: K16 – Ngaân haøng Ñeâm 2 
 TPHCM, tháng 1 năm 2008 
 GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là một trong các công cụ được Ngân hàng nhà nước 
(NHNN) sử dụng để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. NVTTM được chính thức sử 
dụng để điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ năm 2000 theo Quyết định số 
85/2000/QĐ - NHNN14 ngày 09/3/2000. 
Sau 7 năm chính thức hoạt động, NHNN đã từng bước đưa hoạt động nghiệp vụ thị trường 
mở (NVTTM) phù hợp thông lệ quốc tế và điều kiện thị trường tiền tệ trong từng thời kỳ. 
Đến nay, hoạt động NVTTM đã trở thành một trong những công cụ quan trọng bậc nhất 
của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam. 
Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng của doanh số giao dịch qua thị trường hàng năm (từ 
1.903,5 tỷ đồng năm 2000 đến năm 2006 là 103.634,77 tỷ đồng), số lượng các tổ chức 
tham gia cũng tăng lên đáng kể (năm 2000 có 20 NHTM tham gia giao dịch, đến năm 2006 
có 35 NHTM tham gia). Ngoài các ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh còn có các 
NHTM cổ phần, các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 
Tuy nhiên, trong điều hành NVTTM vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc, đó là: 
Hoạt động này chủ yếu chịu sự chi phối của 4 ngân hàng thương mại nhà nước; Việc dự 
báo vốn khả dụng để đưa ra kiến nghị cho nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn nhiều khó 
khăn, kết quả dự báo vốn khả dụng chủ yếu mang tính ngắn hạn; Hiện tại các thủ tục về 
đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá, thủ tục về lập hợp đồng vẫn còn khá phức tạp; Vẫn còn bất 
cập trong đặt thầu, xét thầu; Đôi khi vẫn phải áp dụng lãi suất chỉ đạo trong các phiên giao 
dịch; Các giao dịch qua mạng chưa được đơn giản hoá… 
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu thực trạng sử dụng NVTTM trong thực thi chính 
sách tiền tệ ở Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp giúp NHNN vận hành tốt công cụ 
này là hết sức cần thiết. 
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
 - Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ NVTTM trong việc điều hành chính sách tiền tệ 
của NHNN ở Việt Nam hiện nay. 
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
 - Chương I trình bày những lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ (CSTT), mục 
tiêu, các công cụ được sử dụng trong điều hành CSTT, trong đó trình bày chi tiết 
công cụ NVTTM. 
 - Chương II trình bày thực trạng sử dụng công cụ NVTTM trong việc điều hành 
CSTT ở Việt Nam hiện nay. 
 - Chương III đưa ra các nhóm giải pháp giúp NHNN sử dụng công cụ NVTTM 
điều hành CSTT hiệu quả hơn. 
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
4.1 Phương pháp thu thập dữ liệu: chủ yếu là nguồn dữ liệu thứ cấp. Kế thừa tối 
đa các nghiên cứu và tài liệu chính thức có liên quan. Thu thập nguồn dữ liệu, số 
liệu về nghiệp vụ thị trường mở từ Ngân hàng nhà nước và một số tổ chức khác. 
Lưu trữ, sắp xếp lại các dữ liệu, tài liệu và thống nhất số liệu phân tích, tạo thành 
một cơ sở dữ liệu phù hợp để đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu. 
4.2 Phương pháp phân tích: thực hiện các phân tích dữ liệu chuỗi, xu hướng, cơ 
cấu…nhằm tìm hiểu mối tương quan giữa các yếu tố tác động đến việc điều hành 
chính sách tiền tệ thông qua thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. 
4.3 Phương pháp so sánh: so sánh số liệu giữa các năm nhằm thấy được vai trò 
ngày càng quan trọng của nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều hành chính sách 
tiền tệ. 
5.Ý NGHĨA ĐỀ TÀI 
Qua phân tích tình hình thực tế sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều 
hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam, tham khảo một số nước trên thế giới để đưa ra một số 
ý kiến đề xuất giúp cho Ngân hàng nhà nước sử dụng công cụ này ngày càng có hiệu quả 
hơn. 
CHƯƠNG I 
 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 
 VÀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ C Ơ BẢN VỀ C HÍNH SÁCH TIỀN TỆ 
1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ 
 Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của nhà 
nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh 
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân.(Luật NHNN) 
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 
1.2.1 Mục tiêu tổnq quát (mục tiêu cuối cùng) 
 Mục tiêu CSTT hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền cung ứng 
nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh 
tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô trên, một số nước còn tập trung vào 
các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế phát triển đặc thù quốc gia. Tuy nhiên 
do tính chất mâu thuẫn giữa các mục tiêu nên NHTW không thể theo đuổi tất cả các mục 
tiêu trên trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này buộc NHTW phải có sự lựa chọn 
và ưu tiên cho những mục tiêu quan trọng trong từng thời kỳ mặc dù mục tiêu ổn định giá 
cả luôn là mục tiêu dài hạn của NHTW. 
1.2.2. Mục tiêu điều hành 
 Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một chiều nhất định 
đến mục tiêu cuối cùng (mục tiêu chính sách) của CSTT. Căn cứ vào sự phát triển và diễn 
biến của thị trường tiền tệ, NHTW các nước đều lựa chọn các mục tiêu điều hành của 
CSTT. Mục tiêu điều hành của CSTT bao gồm mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động. 
 a, Mục tiêu trung gian 
 NHTW không thể sử dụng các công cụ CSTT tác động trực tiếp và ngay lập tức đến 
các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Ảnh hướng của CSTT chỉ xuất hiện sau một thời 
gian nhất định. Để khắc phục hạn chế này, NHTW của tất cả các nước thường xác định các 
chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. 
 Cả tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên, nhưng 
NHTW không thể chọn cả hai chỉ tiêu trên làm mục tiêu trung gian mà chỉ có thể chọn một 
trong hai chỉ tiêu đó. Bởi lẽ, nếu đạt được mục tiêu về tổng khối lượng tiền cung ứng thì 
phải chấp nhận sự biến động của lãi suất và ngược lại. 
 b, Mục tiêu hoạt động 
 Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của công 
cụ CSTT đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu trung gian. Việc lựa chọn hệ 
thống chỉ tiêu thích hợp làm mục tiêu hoạt động có ý nghĩa quan trọng quyết định hiệu quả 
tác động của CSTT. Hệ thống chỉ tiêu này vừa đóng vai trò phản ánh tình trạng CSTT 
đồng thời phản ánh dấu hiệu về định hướng CSTT của NHTW. Các chỉ tiêu thường được 
lựa chọn làm mục tiêu hoạt động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng và dự trữ 
ngân hàng. 
1.3. C ác công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 
1.3.1. Các công cụ chủ yếu 
 a. Dự trữ bắt buộc 
 Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài 
khoản tiền gửi tại NHTW trong một thời kỳ nhất định. DTBB được tính trên cơ sở tỷ lệ 
DTBB do NHTW quy định đối với từng loại tiền gửi cấu thành nên nguồn vốn hoạt động 
của một ngân hàng. Tỷ lệ DTBB do NHTW quy định và được xác định bằng một tỷ lệ % 
nhất định trên tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại NHTM. Tỷ lệ DTBB được áp dụng 
có phân biệt đối với các loại tiền gửi có thời hạn khác nhau, quy mô và tính chất hoạt 
động của NHTM. 
 DTBB tác động tới cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng 
tiền tệ. Tỷ lệ DTBB tăng lên sẽ làm giảm số tiền gửi được nâng đỡ bởi một mức nhất 
định của cơ số tiền tệ và dẫn đến việc thu hẹp cung ứng tiền. Mặt khác, tỷ lệ DTBB giảm 
xuống sẽ dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ do việc tạo thêm tiền gửi gấp 
nhiều lần. Việc quy định tỷ lệ DTBB do NHTW quyết định tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể 
của nền kinh tế. 
 b. C hính sách chiết khấu 
 Chiết khấu là một trong những hình thức cho vay của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp 
một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã làm tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo 
cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán của họ. 
 Chính sách chiết khấu bao gồm các quy định về hạn mức chiết khấu, lãi suất chiết khấu và 
điều kiện cho vay của NHTW đối với các ngân hàng. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết 
khấu các chứng từ có giá của ngân hàng. NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác 
động tới giá cả khoản vay thông qua lãi suất chiết khấu căn cứ vào mục tiêu của CSTT là thắt 
chặt hay nới lỏng, từ đó tác động tới lượng tiền trong lưu thông. 
 Sự thay đổi về lãi suất chiết khấu được xem là một dấu hiệu thông báo của NHTW trong 
định hướng thực hiện CSTT. Các tuyên bố của NHTW về chiều hướng biến động lãi suất chiết 
khấu (tăng lên hoặc giảm xuống) có tác dụng hướng dẫn hành vi của thị trường theo định hướng 
CSTT. 
 c. Nghiệp vụ thị trường mở 
 Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động NHTW mua, bán các chứng từ có giá 
như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi ... trên thị 
trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự trữ trong hệ thống 
ngân hàng, qua đó tác động đến khối lượng tiền cung ứng. Do vậy, thị trường này có khả 
năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm cho giá cả 
biến động mạnh. 
 OMO là công cụ CSTT quan trọng của NHTW. Nghiệp vụ này là yếu tố quyết định 
quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính 
gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. 
 OMO là một trong những cửa ngõ quan trọng để NHTW phát hành tiền vào lưu 
thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về thông qua mua hay bán các các loại GTCG. Qua 
nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, tác động đến 
khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng. 
1.3.2. Các công cụ bổ trợ 
 a. Lãi suất 
 Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều khiển mức cung 
ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ 
trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi 
suất là một công cụ quan trọng của NHTW trong thực hiện CSTT. 
 Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện quản lý gián 
tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn điều chỉnh lãi suất của các 
ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường 
tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. 
Ngoài ra, NHTW có thể quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua 
quy định các mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên hình thức quản lý trực tiếp 
lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển, và xu hướng 
chung là giảm dần sự quản lý trực tiếp này. 
 b, H ạn mức tín dụng 
 Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp của NHTW để khống 
chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm 
bảo mức tăng trưởng của tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là 
mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các ngân hàng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh 
tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng, 
trong định hướng cơ cấu kinh tế và trong giới hạn tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền 
kinh tế trong một thời gian xác định. 
 Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng 
lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp đặt của 
NHTW đối với hệ thống ngân hàng. 
 c, Tỷ giá hối đoái 
 Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, hay có 
thể nói là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền khác. Tỷ giá vừa phản ánh sức 
mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối 
đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, có tác động mạnh mẽ đến xuất nhập 
khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động nhạy bén và 
mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân thanh 
toán quốc tế, vốn đầu tư và dự trữ của quốc gia. 
 Về thực chất thì tỷ giá không phải là công cụ CSTT bởi lẽ tỷ giá không làm tăng 
giảm khối lượng tiền trong lưu thông, mà chỉ góp phần thay đổi cơ cấu khối lượng tiền. 
Tuy nhiên tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, có 
mức độ đôla hoá cao, thì tỷ giá được xem là một công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành 
CSTT. 
2. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 
2.1. Khái niệm 
 Theo cách hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ thị trường mở” là hoạt động mua 
bán các chứng từ có giá của NHTW với các đối tác được lựa chọn để qua đó tác động tới lãi 
suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác này, vì thế có thể ảnh hưởng tới các điều 
kiện tiền tệ của nền kinh tế thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và giá cả. Thuật ngữ 
"Thị trường mở" ở đây được hiểu là một thị trường có tính chất mở, nghĩa là đa dạng về các 
đối tác tham gia thị trường và đa dạng về các loại giao dịch trên thị trường. 
 OMO là một trong các công cụ CSTT có hiệu quả cao và hiện đang được các nước trên 
thế giới sử dụng. Mặc dù OMO được sử dụng phổ biến nhưng việc đưa ra một khái niệm 
chung là không thống nhất. Sự không thống nhất này thể hiện ở sự khác nhau về hàng hoá 
giao dịch, các đối tác tham gia thị trường và các loại giao dịch trên thị trường. 
2.2. C ơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở 
 Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác động 
trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất trên thị 
trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và 
mặt lượng. 
a. Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng 
 Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác động 
ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của 
các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO) và tiền gửi của khách 
hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác tham gia OMO). 
 Sơ đồ 1.1. C ơ chế tác động của O MO tới dự trữ ngân hàng 
 NHTW Dự trữ Dự trữ mở Khối MS 
 bán NH rộng cho lượng TD giảm 
 GTCG giảm vay giảm giảm 
 Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng tại 
NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Trường hợp 
người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ làm giảm số dư tiền 
gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút 
tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân 
hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn 
đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện m ua GTCG trên thị trường mở, kết 
quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị 
trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín 
dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. 
b.Tác động qua lãi suất 
 Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp 
đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau: 
 Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn 
NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay 
đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông 
qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới 
các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường 
xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết 
định. 
 Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của O MO qua lãi suất 
 Cung TPKB Giá TPKB LS thị trường 
 tăng giảm tăng 
 tăng 
 NHTW bán Đầu tư 
 giảm 
 TPKB 
 D ự trữ NH Cung của quỹ Lãi suất ngắn Lãi suất thị 
 giảm cho vay giảm hạn tăng trường tăng 
 Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại 
GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của 
chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong các giao 
dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất 
thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng. 
2.3. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở 
 Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và thực thi các 
công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị trường. Trong 
đó, OMO là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi cung - 
cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG 
tại thị trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ 
thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung ứng. Như 
vậy, OMO đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực tiếp 
trong điều hành CSTT. 
 Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông qua mua bán 
GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị trường về định hướng điều hành 
CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện OMO thường xuyên 
và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo 
lãi suất thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động của lãi suất thị 
trường. 
 OMO là một công cụ CSTT có tính chủ động cao. OMO do NHTW chủ động khởi 
xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường do các ngân 
hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có thể chủ động thực 
hiện OMO theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết. OMO có thể được thực hiện linh 
hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời gian giao dịch. NHTW có thể thực hiện 
OMO ở quy mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán GTCG lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ 
theo quyết định mua/bán GTCG. 
 OMO có thể khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ trực 
tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Các giao dịch OMO có tính hai chiều, qua đó NHTW 
có thể bơm thêm tiền vào lưu thông hoặc rút tiền từ lưu thông, trong khi công cụ TCV chỉ 
có thể bơm thêm tiền vào lưu thông. Mặt khác, với công cụ OMO, NHTW có thể chủ động 
hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của 
NHTM như trong công cụ TCV. Qua việc tính toán và dự báo vốn khả dụng cũng như 
lượng tiền cung ứng, NHTW có thể biết chính xác được khối lượng tiền cần bơm thêm 
hoặc rút về từ lưu thông. 
 Thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường 
nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở tác động mạnh đến sự hoàn thiện và 
phát triển của thị trường liên ngân hàng. 
2.4. Thành viên nghiệp vụ thị trường mở 
2.4.1. Ngân hàng trung ương 
 NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo 
các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại OMO và tần 
suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các GTCG nhằm 
tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và gián tiếp 
tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là người can thiệp 
thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm 
kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương ti