Được coi là tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới, công ty Exxon hiện nay đang nắm
quyền sở hữu trữ lượng sản xuất dầu với lợi tức khổng lồ. Từ những năm 1980s đến những
năm 1990s, nó cùng với 2 đối thủ lớn là General Motors và Ford luân phiên nhau giữ 1
trong 3 vị trí dẫn đầu trong danh sách Fortune 500 các công ty về doanh thu. Công ty có
một lịch sử phát triển lâu dài, bắt đầu từ năm 1911 sau sự tan rã của Standard Oil
Company. Trong thời kì này, nó hoạt động đơn độc như một công ty lọc dầu, mua dầu thô
từ những nơi sản xuất ở Western Pennsylvania và bán sản phẩm đã qua tinh chế cho các
nhà buôn ở những thành phố lớn. Dù vậy, công ty sau đó đã mở rộng hoạt động ra ngoài
xuất phát điểm này, thâm nhập vào những khúc thị trường mới của ngành công nghiệp dầu
mỏ, cung cấp thêm các sản phẩm mới và chuyển sang kinh doanh ở các ngành công nghiệp
hòan toàn mới mẻ. Đây chính là một sự mở rộng của tập đoàn mà chúng ta cần quan tâm.
44 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sử dụng nguồn lực đòn bẩy để mở rộng lợi thế - Trường hợp 1: Tập đoàn dầu khí exxon, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm 6: Lớp CHQTKD2 2010-2012 1
Tiểu luận
SỬ DỤNG NGUỒN LỰC ĐÒN BẨY ĐỂ MỞ RỘNG LỢI THẾ
TRƯỜNG HỢP 1: TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ EXXON
Nhóm 6: Lớp CHQTKD2 2010-2012 2
Được coi là tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới, công ty Exxon hiện nay đang nắm
quyền sở hữu trữ lượng sản xuất dầu với lợi tức khổng lồ. Từ những năm 1980s đến những
năm 1990s, nó cùng với 2 đối thủ lớn là General Motors và Ford luân phiên nhau giữ 1
trong 3 vị trí dẫn đầu trong danh sách Fortune 500 các công ty về doanh thu. Công ty có
một lịch sử phát triển lâu dài, bắt đầu từ năm 1911 sau sự tan rã của Standard Oil
Company. Trong thời kì này, nó hoạt động đơn độc như một công ty lọc dầu, mua dầu thô
từ những nơi sản xuất ở Western Pennsylvania và bán sản phẩm đã qua tinh chế cho các
nhà buôn ở những thành phố lớn. Dù vậy, công ty sau đó đã mở rộng hoạt động ra ngoài
xuất phát điểm này, thâm nhập vào những khúc thị trường mới của ngành công nghiệp dầu
mỏ, cung cấp thêm các sản phẩm mới và chuyển sang kinh doanh ở các ngành công nghiệp
hòan toàn mới mẻ. Đây chính là một sự mở rộng của tập đoàn mà chúng ta cần quan tâm.
PHÂN KHÚC NGÀNHCÔNG NGHIỆP
Quá trình lọc dầu là công đoạn tách dầu thành nhiều thành phần khác nhau, bao gồm
dầu nhờn bôi trơn, dầu mỏ, khí đốt, dầu nhờn trong động cơ máy bay, dầu động cơ, nhựa
đường và các nguyên liêu dùng trong ngành công nghiệp nhựa và hóa chất. Rất nhiều vật
dụng chúng ta sử dụng hàng ngày đều được làm từ nhựa và hỗn hợp hóa chất từ dầu. Việc
chế xuất dầu thô thành các sản phẩm khác nhau trải qua hàng loạt quá trình . Các phân tử
dầu được tổ chức lại để tạo thành một hợp chất mới. Những hợp chất này được sử dụng bởi
khách hàng khác nhau với những mục đích khác nhau. Ngành công nghiệp hóa dầu vì thế
bao gồm một số các phân đoạn khác biệt, mỗi phân đoạn được xác định bởi một giai đoạn
chế biến và sử dụng sản phẩm. Exxon chủ động tham gia vào nhiều khúc thị trường như
dầu đốt, dầu mỏ và dầu nhờn bôi trơn… ngay từ lúc ban đầu. Theo thời gian, tập đoàn mở
rộng kinh doanh các hỗn hợp nhiên liệu đặc biệt, nguyên liệu hóa chất trong ngành (vd:
ethylene), và dung môi công nghiệp, cùng với các thứ khác. Nó đồng thời bành trướng
phạm vi lãnh thổ ra hơn 50 quốc gia trên thế giới. Hiện nay, Exxon đang đầu tư mạnh vào
thị trường khu vực Mỹ la tinh bằng các thỏa thuận với các nước Argentina, Brazil, Mexico
và Venezuela.
CÁC GIAI ĐOẠN SẢN XUẤT
Ngành công nghiệp dầu mỏ bao gồm 5 giai đoạn: (1) thăm dò- định vị dầu nằm sâu
dưới mặt đất, (2) sản xuất – đưa dầu lên, (3) vận chuyển – chuyên chở dầu đến các nhà
máy lọc dầu, (4) chế biến – tách dầu thô thành các thành phần khác nhau và (5) đưa ra thị
trường – bán sản phẩm chế biến cho người sử dụng. Mặc dù Standard Oil (tiền thân của
Exxon) chỉ tham gia ở 1 trong số các giai đoạn này là lọc dầu nhưng sau này công ty đã
tham gia vào tất cả 5 giai đoạn. Exxon vì thế được coi là tập đoàn hợp nhất về kinh doanh
dầu hiện nay. Điều đó có nghĩa là Exxon cam kết đầu tư ổn định vào cả 5 hoạt động liên
quan trực tiếp đến việc chuyển đổi nhiên liệu dầu thô từ khi dưới lòng đất cho đến khi
thành các sản phẩm có giá trị cao hơn.
SỰ PHONG PHÚ CỦA SẢN PHẨM
Exxon đã mở rộng phạm vi các sản phẩm mà nó cung cấp cho các khách hàng truyền
thống. Trong những năm 80s và 90s, công ty bắt đầu cung cấp thêm các tiện tích liên quan
đến điện như than đá và uranium bên cạnh dầu khí. Khai thác mỏ trở nên quan trọng với
Nhóm 6: Lớp CHQTKD2 2010-2012 3
Exxon để bảo toàn lợi nhuận của nó mỗi khi giá dầu biến động. Hoạt động khai thác mỏ
của Exxon đã mở rộng trình độ chuyên môn trong việc phát triển các nguồn tài nguyên
mới. Tiềm năng của việc sử dụng dầu đá phiến cho nhiên liệu dầu mỏ, lấy ví dụ, tùy thuộc
vào chuyên môn ở lĩnh vực địa lý. Thực tế của việc cùng tồn tại giữa khí tự nhiên và dầu
mỏ có nghĩa là Exxon sẽ sớm phải tham gia vào thị trường hóa lỏng khí tự nhiên. Rất nhiều
chuyên gia đã dự đoán về sự bùng nổ các nhu cầu về nhiên liệu khí tự nhiên sạch như một
nguồn nguyên liệu thay thế và một sự điều chỉnh mới đối với môi trường. Việc Exxon tiếp
tục đầu tư vào quá trình tìm kiếm các dạng năng lượng thay thế, như khí tự nhiên, dầu đá
phiến, và các nguồn năng lượng tái sinh (như gió và năng lượng mặt trời) cho phép nó thu
được những kiến thức và chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau nhưng có liên quan ít
nhiều đến yếu tố năng lượng.
VỊ TRÍ NGÀNH KINH DOANH MỚI
Chiến lược đa dạng hóa của Exxon đã đưa tập đoàn này sang những ngành công
nghiệp hoàn toàn mới. Việc khai thác các mỏ đồng, vàng, kẽm là những ví dụ cho chiến
lược đa dạng hóa sản phẩm. Việc khai thác mỏ cho phép Exxon sử dụng các kỹ năng địa
chất để thâm nhập vào thị trường quặng và khoáng chất. Mặt khác, việc giành được công
ty Reliance Electric, một nhà sản xuất động cơ mô tô lớn, vào năm 1979 của Exxon, làm
cho tập đoàn này phải đa dạng hóa sản xuất sang lĩnh vực công nghiệp hoàn tòan mới. Việc
chế tạo động cơ điện chỉ mang lại nguồn lợi nhuận gián tiếp giúp cho Exxon cải thiện tình
hình tài chính của nó do một loạt kỹ năng và năng lực khác được dùng đến. Exxon cũng
thâm nhập vào lĩnh vực tự động hóa và thiết bị tòa nhà trong suốt thập niên 70 và 80,
nhưng sau đó nó đã phải rúi lui vì bị thua lỗ nặng. Sản phẩm đáng ghi nhớ nhất của nó
trong ngành công nghiệp tự động hóa tòa nhà là máy đánh chữ Qyx typewriter, được hoàn
thành trong nỗ lực cạnh tranh với nhãn hiệu máy đánh chữ Selectric của IBM. The Qyx là
một thiết bị cách tân lúc bấy giờ, nó sử dụng máy quay dải ruy băng chuyển động tự do,
điều này cho phép bản in đẹp và mịn hơn.
TRƯỜNG HỢP 2: TẬI ĐOÀN VỀ SẢN XUẤT MỸ PHẨM VÀ CHĂM SÓC CÁ
NHÂN KAO (NHẬT BẢN)
Kao là tập đoàn chuyên sản xuất xà phòng, chất tẩy rửa, sữa tắm, các sản phẩm chăm
sóc cá nhân và tiêu dùng khác. Trên nhiều phương diện thì Kao là một công ty của Nhật có
thể cạnh tranh được với tập đoàn Procter and Gamble (P&G) và nó cũng được tổ chức
tương tự như thế. Doanh thu của Kao trong năm 1997 đạt được lớn nhất lên mức là 7.26 tỷ
USD, và thu nhập ròng đạt hơn 220 tỷ USD. Điều này làm cho Kao trở thành một trong
những hãng sản xuất các sản phẩm về chăm sóc cá nhân lớn nhất trên thế giới. Kao nổi
tiếng trên khắp nước Nhật và châu Á, nó cung cấp trên 600 sản phẩm với hàng loạt nhãn
hiệu. Hãng này cũng đang phát triển một vị thế mạnh trong các ngành kỹ thuật và công
nghiệp khác như (1) sản xuất dầu mỡ, các dạng của sữa và lớp tráng phim mỏng dùng
trong các sản phẩm dạng lỏng, sản phẩm chăm sóc sức khỏe cá nhân, (2) hóa chất chuyên
dùng, vật liệu dẻo được dùng trong ngành in, sản xuất nhựa, công nghiệp dệt may và thậm
chí Kao còn tham gia sản xuất cả đĩa mềm với hóa chất đặc biệt và giấy than dùng trong
ngành công nghiệp sản xuất máy tính cá nhân. Kao đang mở rộng sang thị trường Mỹ và
châu Âu bằng cách cho đi vào hoạt động các trung tâm nghiên cứu và phát triển được đặt
tại khu vực này.
Nhóm 6: Lớp CHQTKD2 2010-2012 4
ĐẶC TÍNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM
Lợi thế cạnh tranh trong ngành CN sản xuất các sản phẩm tiêu dùng như dầu gội đầu,
chất tẩy rửa và xà phòng phụ thuộc vào khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu
cầu của thị trường địa phương trong khi liên tục đưa ra được các sản phẩm mới. Việc phát
triển sản phẩm mới và khả năng marketing tốt (đặc biệt là trong khâu phân phối sản phẩm
và nghiên cứu thị trường), điều này chứng tỏ kỹ năng chủ chốt cần thiết cho doanh nghiệp
cạnh tranh trong thị trường mà thường xuyên có sự thay đổi về nhu cầu. Các đối thủ cạnh
tranh quốc tế như Procter and Gamble, Colgate-Palmolive, Unilever, Henkel, và Kao, phải
nhanh chóng phát triển và thử nghiệm khái niệm và ý tưởng sản phẩm mới. Rất nhiều sản
phẩm trong số đó là các sản phẩm nghiên cứu phát triển và được quảng cáo rất mạnh. Họ
cần rất nhiều chuyên gia trong ngành hóa học ứng dụng, chất hòa tan, ngành phân phối sản
phẩm và nghiên cứu thị trường đẻ thiết kế, phát triển và sản xuất ra các sản phẩm mới cho
thị trường liên tục thay đổi. Do đó các sản phẩm chăm sóc cá nhân bao gồm một loạt lớn
các sản phẩm cần được thử nghiệm thị trường thường xuyên. Nghiên cứu thị trường và
việc thử nghiệm sản phẩm là nhiệm vụ không thể thiếu của những công ty như Kao vì đối
thủ cạnh tranh có thể bắt chước sản phẩm của họ nhanh chóng. Kao đã chi rất nhiều tiền
cho hoạt động nghiên cứu hàng năm (lên đến 5% doanh thu mỗi năm) để phát triển kỹ
thuật hóa chất tiên tiến và các kỹ năng liên quan đến chất hoạt động bề mặt, chất chuyển
thể sữa, chất phủ mặt ngoài, axit béo, cồn, chất kết dính và dầu. Ví dụ, Chất họat động bề
mặt được dùng cho việc sản xuất chất tẩy rửa, sửa tắm, và thuốc tẩy quần áo, nó sẽ tương
tác với nước để loại bỏ chất dầu mỡ. Chất chuyển thể sữa là một thành phần quan trọng
trong các sản phẩm chăm sóc cá nhân vì chúng giúp giữ lại lượng dầu cần thiết trong khi
loại bỏ các chất khác. Các chuyên gia của Kao về chất hoạt động bề mặt và chất chuyển thể
sữa giúp tập đoàn này học hỏi và đầu tư vào kỹ thuật tráng phim mỏng. Nói một cách
chung nhất, kỹ thuật tráng phim mỏng được dùng trong rất nhiều các ứng dụng thương mại
và tiêu dùng, trong đó hóa chất và các chất nền khác được áp dụng thận trọng (trong lớp
cực kỳ mỏng) nhằm tạo cho khu vực bề mặt hiệu quả như mong đợi. ví dụ, lớp màng phim
mỏng ở lõi của thuốc khử nicotin được bôi vào biểu bì da nhằm giúp người ta tránh được
tác động xấu của khói thuốc lá. Phần da được bôi một lớp thuốc cực kỳ mỏng. Các axit
béo, chất cồn và dầu không chỉ được dùng như là nguyên liệu cho các sản phẩm chăm sóc
cá nhân mà nó còn như các sản phẩm cuối cùng trong ngành công nghiệp thực phẩm và
hóa chất khác. Hàng năm, Kao giới thiệu hàng loạt sản phẩm mới dựa trên các kỹ năng và
nguyên liệu này. Chiến lược phát triển sản phẩm nhanh chóng này cùng với các kỹ năng về
thị trường và hoá chất cốt lõi làm cho Kao có khả năng tiến xa hơn các đối thủ cạnh tranh
đặc biệt là trên thị trường các nước châu Á. Sự đa dạng về các chủng loại sản phẩm của
Kao và khả năng nghiên cứu thị trường tuyệt vời cũng tạo cho công ty một sức mạnh thị
trường đáng kể với bất cứ nhà bán buôn, bán lẻ nào.
MỞ RỘNG LỢI THẾ QUA CÁC KỸ NĂNG MỚI
Sức mạnh tiếng tăm của Kao trong lĩnh vực hóa học và các sản phẩm dựa trên sự đổi
mới có thể thấy thông qua số lượng khổng lồ các sản phẩn đã vươn tới thị trường châu Á
và Mỹ. Ví dụ, vào đầu những năm 1990, Kao đã đi tiên phong trong việc sản xuất dầu ăn ít
béo. Loại dầu ăn này có thể được dùng để trộn vào món salad, nướng bánh, các món xào
rán với lượng dùng chỉ bằng một nửa loại dầu ăn thông thường—một nhân tố thị trường
quan trọng trong một thị trường mà yếu tố sức khỏe ngày một được chú trọng đến. Trong
suốt những năm cuối thập niên 80, Kao đã vượt lên trên được Procter and Gamble trên thị
trường tã lót dùng một lần của Nhật, Kao có thể cạnh tranh với rất nhiều sản phẩm của
P&G bằng sản phẩm tã lót mang tên Pampers của chính mình. Nhìn chung, rất nhiều sản
phẩm của Kao đi theo kịp và tương tự với các sản phẩm của Procter and Gamble ở Mỹ và
Unilver ở châu Âu. Cả hai tập đoàn P&G và Unilever đều coi Kao như một đối thủ cạnh
Nhóm 6: Lớp CHQTKD2 2010-2012 5
tranh đáng gờm có năng lực về kỹ thuật cũng như về thị trường. Rất nhiều các sản phẩm
cải tiến thành công của Kao có được từ các trung tâm R&D cực kỳ hiện đại. Trên thực tế,
chất tẩy rửa cô đặc (như dạng bột và dạng lỏng) được phát hiện thông qua sự cạnh tranh
trong nghiên cứu và marketing giữa các phòng nghiên cứu của Kao’s và Procter and
Gamble ở Nhật bản. Sản phẩm tẩy rửa cô đạc Tide có thể được tìm thấy tại bất kỳ quầy
hàng tạp hóa nào trên đất Mỹ, là ví dụ cho kết quả của những nỗ lực hết mình của P&G
trong công tác nghiên cứu chuyên sâu từ đó đã cải thiện được dòng sản phẩm sánh vai
cùng với sản phẩm của Kao và các đối thủ trong nước khác tại Nhật.
Mùa hè năm 1997, Kao đã giới thiệu một sản phẩm mới tại Mỹ mang tên Biore Pore
Perfect. Được thiết kế như là một loại sản phẩm chăm sóc da và sản phẩm làm sạch, nó có
thể được dùng để bôi lên mũi, cổ và các phần khác tập trung lượng chất nhờn lớn. Người ta
cho rằng Kao đã thu về được khoảng 55 triệu USD doanh thu cuối nửa năm 1997 kể từ khi
tiến hành bán sản phẩm này. Cho dù giá của sản phẩm này khá đắt (6.00 USD một hộp),
song một số chuỗi cửa hàng dược đã bán hết nhẵn sản phẩm. Biore là một sản phẩm vô
cùng phổ biến vì nó làm cho khách hàng có được cảm giác da được làm sạch đến từng lỗ
chân lông điều mà không thể có được theo cách làm sạch mặt thông thường. Mặc dù gần
đây Biore chỉ là một phần rất nhỏ trong định hướng kinh doanh của Kao (nhưng phát triển
nhanh chóng) nhưng nó là một minh chứng đáng chú ý của việc làm thế nào mà Kao có thể
kết hợp kiến thức về kỹ thuật bao phủ bề mặt với khả năng nghiên cứu thị trường để tạo ra
một sản phẩm hoàn toàn mới. Miếng dán làm sạch da của Biore (tương tự với miếng dán
hiện nay đang đựoc dùng để loại bỏ tác hại của thuốc lá) là sự đầu tư của Kao trong mảng
sản phẩm có lớp bao phủ mỏng, loại sản phẩm được cùng theo cách rất mới. Loại hóa chất
này có trong các sản phẩm làm mềm như dầu gội đầu và dầu xả.
Sự cạnh tranh của Kao với P&G và các đối thủ nội địa khác ở Nhật và Châu Á còn từ
các kênh phân phối. Với kỳ vọng có thể đổi mới, quản lý thị trường và các kênh phân phối
thì Kao sử dụng các chiến lược, kỹ thuật và các chương trình mới tương tự với tập đòan
bán lẻ Wal-Mart của Mỹ. Tất cả các sản phẩm đều được đánh mã vạch. Hàng tồn kho được
quản lý hàng ngày thông qua các cơ quan phân phối và hệ thống thông tin tập trung. Hệ
thống này lưu giữ lại luồng thông tin về doanh thu và xu hướng biến động giá với nguồn
dữ liệu được tập hợp từ các nhà bán buôn và bán lẻ với rất ít thời gian trễ giữa doanh thu
được ghi nhận và đơn đặt hàng mới được nhập vào hệ thống. Do đó Kao liên hệ rất chặt
chẽ với người những khánh hàng lớn theo cùng một cách mà Wal-Mart làm đối với các
nhà cung cấp lớn của nó. Sự quản lý chặt chẽ các kênh phân phối có thể giúp Kao đẩy sản
phẩm cho các nhà bán buôn và bán lẻ trong khi giảm thiểu được lượng hàng tồn kho và chi
phí hàng tồn kho. Để đảm bảo phát triển thị trường nội địa và toàn cầu, Kao sản xuất nhiều
sản phẩm của nó cho thị trường trong nước. Do đó bảo toàn được vị trí trọng yếu của mình
trong thị trường châu Á.
THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG MỚI
Trong suốt thập niên 80, Kao đã mở rộng thị trường không chỉ châu Á mà còn sang
cả châu Âu và Mỹ. Nó đã thu mua được một số các công ty hoá chất ở châu Âu. Kao cũng
thành lập một công ty con ở Đức, một cơ sở phân phối sản phẩm dầu gội đầu đi khắp châu
Âu Guhl Ikebana. Cơ sở nghiên cứu của Kao ở Paris là trung tâm nghiên cứu phát triển các
sản phẩm có mùi thơm. Một trung tâm R&D lớn ở Darmstadt, Đức, chuyên nghiên cứu
phát triển các sản phẩm về chăm sóc da và làm đẹp. Ở Mỹ, nó tham gia liên kết với
Colgate-Palmolive. Vào năm 1988, Kao thu mua công ty Andrew Jergens, một công ty
từng là số một về sản xuất mỹ phẩm làm mềm da tay. Bước đi này đã giúp gia tăng sự có
mặt của Kao trên thị trường Bắc Mỹ. Trung tâm nghiên cứu Andrew Jergens tại Ohio trở
Nhóm 6: Lớp CHQTKD2 2010-2012 6
thành một trung tâm quan trọng cho các chuyên gia của Kao để phát triển mỹ phẩm dạng
lỏng. Chức năng chủ yếu của các cơ sở nghiên cứu và phát triển sản phẩm tại Mỹ và Châu
âu là thay đổi các thành phẩm của Kao để tạo ra các sản phẩm mới cho thị trường nội địa.
Trên khắp châu Á, các cơ sở sản xuất và phân phối của Kao tăng nhanh chóng tại
Thailand, Indonesia, Hong Kong, Singapore, Đài loan và gần đây là Trung Quốc.
LĨNH VỰC KINH DOANH MỚI
Kao vạch rõ công nghệ cốt lõi và khả năng của nó từ một chiến lược chung được gọi
là ngành khoa học chăm sóc da. Khoa học chăm sóc da đề cập đến việc sử dụng các hóa
chât ứng dụng và thậm chí là lớp phim mỏng để che phủ lên phần bề mặt da. Kao sử dụng
những khái niệm này như là một công cụ để xâm nhập vào một ngành kinh doanh mới.
Một số các công nghệ quan trọng của Kao là hóa chất ứng dụng và lớp bao phủ bề mặt.
Việc kết hợp, sử dụng lớp tráng phim mỏng, axit béo, chất lỏng, dầu, cồn và các chất khác
là những nhân tố cơ bản hình thành nên hầu hết các sản phẩm của Kao. Phần lớn khách
hàng không nghĩ những hóa chất này là thành phần cơ bản tạo nên xà phòng, chất tẩy rửa,
dầu gội và các sản phẩm hoàn toán mới lạ như mặt nạ làm sạch da Biore. Ngoài ra nó còn
là nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác. Hóa chất chuyên dụng của Kao cung cấp
polymers, dầu máy, và các sản phẩm phụ cho ngành sản xuất chất dẻo, mực, và công
nghiệp máy tính đây là các ngành thể hiện ứng dụng thay thế của ngành khoa học hoạt
động bề mặt. Trong giữa thập niên 80, Kao đã mở rộng chiến lược sang sản xuất và phát
triển đĩa mềm dùng cho máy tính cá nhân. Để mở rộng hơn nữa chuyên môn của công ty,
Kao đã thu mua tập đoàn hóa chất High Point của Mỹ vào năm 1987. High Point sản xuất
hóa chất dùng trong ngành may mặc, chất bôi trơn máy sợi, mực in, hoá chất nông nghiệp.
Vào những năm 1990 Kao đã bắt đầu áp dụng kỹ năng tráng men lớp mỏng cho sản xuất
đĩa mềm để làm dải băng mực in, giấy than và băng âm thanh kỹ thuật số. Hầu hết sản
phẩm này cung cấp cho các công ty khác theo tên nhãn của họ
TRƯỜNG HỢP 3:
TẬP ĐOÀN DỊCH VỤ VIỄN THÔNG AT&T
Chiến lược công ty thay đổi liên tục trong giai đoạn những năm 1990s
Trong những năm 1990s, tập đoàn AT&T - công ty về dịch vụ truyền thông hàng đầu
của Mỹ, đã trải qua một loạt thay đổi về chiến lược trong nội dung chiến lược của công ty.
Trong vòng 8 năm, công ty đã tích hợp hoàn toàn với các nhà cung cấp về máy tính, thiết
bị truyền thông, máy bán dẫn, thiết bị tiêu thụ điện, dịch vụ viễn thông, và thậm chí cả dịch
vụ tài chính thành một công ty viễn thông liên hoàn. Khởi đầu thập kỉ, năng lực R&D, sản
xuất và marketing khủng khiếp của công ty đã tạo cho nó một nguồn lực dồi dào để cạnh
tranh với các đối thủ sừng sỏ khác như Toshiba và NEC của Nhật, IBM và Motorola của
Mĩ, Ericsson, Siemens và Alcatel của châu Âu. Sự đầu tư khổng lồ của AT&T ở rất nhiều
lĩnh vực công nghệ đã cho phép nó có thể thiết kế, phát triển vào những ngành dẫn đầu như
truyền phát hình ảnh, phần mềm phát hiện giọng nói tân tiến, thiết bị bán dẫn siêu tốc, tiêu
chuẩn đa phương tiện và dạng mới của loại truyền dẫn ko dây. Không có công nghệ nào
trong số những điều này được coi là có tính tương mại vào 6 năm trước, nhưng bây giờ
chúng phổ biến rộng rãi và được coi là công nghệ mới nhất của viễn thông, Internet và
thiết bị mạng máy tính. Không những thế, vào năm 98, tập đoàn AT&T hiện tại ( năm 97
đạt được 53.2 tỷ $ doanh thu, thu nhập ròng đạt 4.64 tỷ $) có thể coi là hầu như ko có đối
Nhóm 6: Lớp CHQTKD2 2010-2012 7
thủ trong rất nhiều ngành công nghiệp khác nhau của giai đoạn đầu những năm 90s. Ở đây,
chính là sự thay đổi không ngừng trong mục tiêu của tập đoàn và sự cơ cấu lại tổ chức là
điều chúng ta cần quan tâm.
ĐẦU THẬP NIÊN 90: ĐA DẠNG HÓA CÁC NGÀNH KINH DOANH
Từ khi bãi bỏ việc kinh doanh điện thoại đường dài vào năm 1983, loại hình kinh
doanh điện thoại ban đầu này đã được mở rộng thành ngành kinh doanh viễn thông. Xét
theo một khía cạnh tích cực, việc tồn tại của đường dây điện thoại sẵn có (dây đồng) và
công nghệ mới (bằng cáp quang, gói switching, ko dây) được sử dụng chủ yếu trong việc
truyền tải tín hiệu giọng nói giờ có thể sử dụng để thu âm, thu hình và dữ liệu đã mở rộng
tính linh hoạt và đa dạng của viễn thông. Khả năng truyền một số lượng lớn các loại tín
hiệu (giọng nói, hình ảnh, dữ liệu) một cách nhanh chóng và đồng thời trong mạng lưới đòi
hỏi sự tăng thêm mạnh mẽ của dải băng thông. Tổng quát hơn, sự tăng thêm của băng
thông có liên quan đến số lượng các tần số khác nhau mà một phương tiện truyền thông cụ
thể có thể cung cấp. Nói một cách thông thường, việc tăng thêm dải tần liên quan đến sự
tăng thêm khả năng truyền tải các dòng âm thanh, hình