Tiểu luận Sự lựa chọn tỷ giá hối đoái thả nổi, kiểm soát vốn và chuẩn tiền tệ tại những quốc gia châu Á một góc nhìn từ "Bộ ba bất khả thi"

1.1. Tên của bài nghiên cứu: Sự lựa chọn tỷ giá hối đoái (TGHĐ) thả nổi, kiểm soát vốn và chuẩn tiền tệ tại những quốc gia Châu Á: Một góc nhìn từ “Bộ ba bất khả thi”. 1.2. Lý do nghiên cứu: Trong bất kỳ nền kinh tế mở nào, những nhà hoạch định chính sách phải luôn đối mặt với ba khó khăn liên quan đến những chế độ thanh toán nước ngoài, đôi khi ám chỉ đến như “Bộ ba bất khả thi” mà họ phải đối mặt. Đặc biệt, ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã đặt ra rất nhiều câu hỏi cho các nhà kinh tế về nguyên nhân khủng hoảng, sự vực dậy của nền kinh tế sau khủng hoảng do tác động của bộ ba này. Koichi Hamada và Yosuke Takeda đã đi vào nghiên cứu sự lựa chọ giữa TGHĐ thả nổi, kiểm soát vốn và chuẩn tiền tệ tại những quốc gia châu Á: “Một góc nhìn từ bộ ba bất khả thi”. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu Bài viết tập trung vào giải thích về tiến trình phục hồi và mối quan hệ giữa tiến trình phục hồi và chế độ tiền tệ được áp dụng ở các quốc gia châu Á và một số quốc gia châu Mỹ Latinh ngay khi xảy ra khủng hoảng. Do thời gian quan sát dữ liệu ngắn nên thật khó để có thể giải thích một cách toàn diện về mối quan hệ giữa tiến trình phục hồi và chế độ tiền tệ được áp dụng . Tuy vậy, tác giả đã cố gắng cung cấp các thông tin của quốc gia mà có thể sẽ hữu ích khi đánh giá điểm mạnh điểm yếu của các chế độ TGHĐ khác nhau đã được sử dụng như một phương pháp đối phó với khủng hoảng tiền tệ lúc bấy giờ ở các nước.

pdf37 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1990 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự lựa chọn tỷ giá hối đoái thả nổi, kiểm soát vốn và chuẩn tiền tệ tại những quốc gia châu Á một góc nhìn từ "Bộ ba bất khả thi", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 1 Môn : Tài chính quốc tế GVBM : TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Lớp : Ngân hàng Đêm 3 – K21 DANH SÁCH NHÓM 5 STT Họ tên Ngày sinh 01 Diệp Tuyết Phương 06/08/1988 02 Nguyễn Thị Viên Phương 02/10/1988 03 Trần Lê Anh Quang 25/02/1988 04 Nguyễn Hoàng Ái Quyên 26/08/1988 05 Đinh Thị Thúy Thảo 12/07/1988 06 Thân Huỳnh Kim Thủy 11/03/1988 07 Trần Trịnh Mỹ Tiên 24/11/1989 08 Lê Thị Việt Trang 01/01/1988 09 Nguyễn Thị Kim Tuyền 13/01/1988 10 Nguyễn Lê Diễm Phương 18/10/1987 Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 2  Mục lục  Trang I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................................ 03 1.1. Tên của bài nghiên cứu .................................................................................... 03 1.2. Lý do nghiên cứu ............................................................................................. 03 1.3. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 03 1.4. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 03 II. CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ................................................................... 04 III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................................... 04 3.1. Một số khái niệm, định nghĩa ........................................................................... 04 3.2. Quy mô mẫu .................................................................................................... 07 3.3. Cách chọn mẫu ................................................................................................. 07 3.4. Nghiên cứu định tính ....................................................................................... 08 3.4.1. Khái niệm chi phí điều chỉnh........................................................................ 08 3.4.2. Một số yếu tố ước lượng chi phí điều chỉnh .................................................. 08 3.5. Nghiên cứu định lượng ..................................................................................... 16 3.5.1. Mức độ biến động đột ngột của tỷ giá hối đoái ............................................ 16 3.5.2. Rủi ro quốc gia ............................................................................................ 20 3.5.3. Mức độ thắt chặt của chính sách tiền tệ ....................................................... 27 3.5.4. Sự mất mác sản lượng và tiến trình phục hồi ............................................... 33 IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................................. 34 V. NHẬN XÉT CỦA NHÓM .................................................................................. 36 Tiểu luận SỰ LỰA CHỌN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THẢ NỔI, KIỂM SOÁT VỐN VÀ CHUẨN TIỀN TỆ TẠI NHỮNG QUỐC GIA CHÂU Á MỘT GÓC NHÌN TỪ “BỘ BA BẤT KHẢ THI” Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 3 SỰ LỰA CHỌN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THẢ NỔI, KIỂM SOÁT VỐN VÀ CHUẨN TIỀN TỆ TẠI NHỮNG QUỐC GIA CHÂU Á: MỘT GÓC NHÌN TỪ “BỘ BA BẤT KHẢ THI” I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.1. Tên của bài nghiên cứu: Sự lựa chọn tỷ giá hối đoái (TGHĐ) thả nổi, kiểm soát vốn và chuẩn tiền tệ tại những quốc gia Châu Á: Một góc nhìn từ “Bộ ba bất khả thi”. 1.2. Lý do nghiên cứu: Trong bất kỳ nền kinh tế mở nào, những nhà hoạch định chính sách phải luôn đối mặt với ba khó khăn liên quan đến những chế độ thanh toán nước ngoài, đôi khi ám chỉ đến như “Bộ ba bất khả thi” mà họ phải đối mặt. Đặc biệt, ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã đặt ra rất nhiều câu hỏi cho các nhà kinh tế về nguyên nhân khủng hoảng, sự vực dậy của nền kinh tế sau khủng hoảng do tác động của bộ ba này. Koichi Hamada và Yosuke Takeda đã đi vào nghiên cứu sự lựa chọ giữa TGHĐ thả nổi, kiểm soát vốn và chuẩn tiền tệ tại những quốc gia châu Á: “Một góc nhìn từ bộ ba bất khả thi”. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu Bài viết tập trung vào giải thích về tiến trình phục hồi và mối quan hệ giữa tiến trình phục hồi và chế độ tiền tệ được áp dụng ở các quốc gia châu Á và một số quốc gia châu Mỹ Latinh ngay khi xảy ra khủng hoảng. Do thời gian quan sát dữ liệu ngắn nên thật khó để có thể giải thích một cách toàn diện về mối quan hệ giữa tiến trình phục hồi và chế độ tiền tệ được áp dụng . Tuy vậy, tác giả đã cố gắng cung cấp các thông tin của quốc gia mà có thể sẽ hữu ích khi đánh giá điểm mạnh điểm yếu của các chế độ TGHĐ khác nhau đã được sử dụng như một phương pháp đối phó với khủng hoảng tiền tệ lúc bấy giờ ở các nước. 1.4 Phạm vi nghiên cứu Bài viết tập trung vào nghiên cứu các trường hợp của các nền kinh tế châu Á, nơi trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 và một số nước Mỹ Latinh để so sánh. Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 4 II. Các cuộc nghiên cứu trước đây về “Bộ ba bất khả thi” - Feffrey Frankel (1999) cũng đã đặt vấn đề về tính liên quan của “Bộ ba bất khả thi” cho rằng ngay cả khi tự do hóa hoàn toàn tài khoản vốn, không có gì ngăn cản một quốc gia chọn một giải pháp trung hòa giữa sự thả nổi và liên minh tiền tệ. - Vijay Joshi có cuộc nghiên cứu về Ấn Độ và bộ ba bất khả thi và cho rằng Ấn Độ nên tự do hóa dòng vốn một cách đáng kể , đồng thời nên tiến tới tỷ giá thả nổi có quản lý vào thời điểm thích hợp để tránh nguy cơ khủng hoảng kinh tế vĩ mô. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Một số khái niệm, định nghĩa - TGHĐ danh nghĩa: theo IFS (International Financial Statistics 2000) TGHĐ danh nghĩa là tỷ giá trung bình kỳ hạn của tỷ giá thị trường hoặc tỷ giá chính thức do NHTW quy định. - TGHĐ thực (trong bài nghiên cứu): TGHĐ được xuất phát từ tỷ giá hối đoái danh nghĩa, hiệu chỉnh bởi sự thay đổi trong giá tiêu dùng giữa giá trong nước và USA. - Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về chính sách quản lý ngoại hối, ngoại thương của một quốc gia, khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng, nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá. Rủi ro quốc gia (trong bài nghiên cứu) đề cập đến nguy cơ đầu tư vào một quốc gia, phụ thuộc vào những thay đổi trong môi trường kinh doanh bất lợi có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận điều hành hoặc giá trị tài sản trong một quốc gia cụ thể. Ví dụ, các yếu tố tài chính như kiểm soát tiền tệ, giảm giá hoặc thay đổi quy định, hoặc các yếu tố ổn định như hàng loạt cuộc bạo loạn, nội chiến và sự kiện tiềm năng khác đóng góp vào rủi ro hoạt động của công ty. Thuật ngữ này đôi khi cũng được gọi là rủi ro chính trị. Tuy nhiên, rủi ro quốc gia là một thuật ngữ tổng quát hơn mà thường chỉ đề cập đến các rủi ro ảnh hưởng đến tất cả các công ty hoạt động trong phạm vi một quốc gia cụ thể. Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 5 - Hệ thống TGHĐ cố định: Là TGHĐ hoặc được không đổi hoặc chỉ được cho phép dao động trong phạm vi rất hẹp. - Hệ thống TGHĐ thả nổi tự do: Tỷ giá sẽ được các lực thị trường ấn định mà không có sự can thiệp của Chính phủ. - Hệ thống dãi băng tỷ giá: là một trong những sắp xếp TGHĐ cố định nổi tiếng được Công Đồng Kinh Tế Châu Âu (ECC) lập tháng 4 năm 1972, khi các nước thành viên cộng đồng ấn định rằng các đồng tiền của họ sẽ được duy trì trong vòng các giới hạn được thiết lập đối với nhau. Sắp sếp này được gọi là dãi băng tỷ giá. - Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ: Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ còn được gọi là neo tỷ giá có điều chỉnh hay là các ngang giá trượt. - Hệ thống thả nổi có quản lý: Nó giống hệ thống thả nổi tự do ở điểm các tỷ giá được cho phép dao động hàng ngày và không có các biên độ chính thức. Nó giống hệ thống cố định ở điểm các Chính phủ có thể và đôi khi đã can thiệp để tránh đồng tiền nước họ không đi quá xa theo một hướng nào đó. - Chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ: là 1 hệ thống bao gồm các quy định pháp lý dưới dạng luật nghiêm cấm không cho phép Chính phủ phát hành các khoản nợ – tiền có quyền lực cao, nếu như việc phát hành này không được đảm bảo hỗ trợ 100% bằng một lượng dự trữ quốc tế tương đương. Trong chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ, Chính phủ hoặc Ngân hàng trung ương ấn định một tỷ giá cố định giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, thường là một đồng tiền mạnh và sẵn sàng chuyển đổi từ đồng nội tệ sang ngoại tệ vào bất cứ lúc nào khi công chúng yêu cầu. - Thuế Tobin: Thuế đánh vào các dịch vụ tài chính – ngân hàng.  Tobin thuế là thuế đề xuất trên tất cả các thương mại của các loại tiền tệ qua biên giới. Đặt theo tên của nhà kinh tế James Tobin, thuế là nhằm đặt một hình phạt về đầu cơ ngắn hạn bằng ngoại tệ. Mức thuế suất ban đầu ông đã đề xuất được 1%, sau đó đã được hạ xuống giữa 0,1% và 0,25%. Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 6  Ngày 15 tháng 8, 1971, Richard Nixon đã thông báo rằng đồng Đôla Mỹ sẽ không còn chuyển sang vàng, có hiệu quả kết thúc của hệ thống Bretton Woods. Tobin đề xuất một hệ thống mới cho sự ổn định tiền tệ quốc tế, và đề xuất rằng đó là một hệ thống bao gồm một khoản phí quốc tế về giao dịch ngoại hối.  Ý tưởng nằm im trong hơn 20 năm và đã được hồi sinh bởi sự ra đời của Đông Nam khủng hoảng kinh tế Châu Á ở cuối thập niên 1990. Năm 1997, Ignacio Ramonet, biên tập viên của Le Monde Diplomatique, gia hạn các cuộc tranh luận quanh thuế Tobin với một biên tập có tiêu đề “giải pháp các thị trường. Ramonet đề xuất tạo ra một hiệp hội để giới thiệu về thuế này, được đặt tên làATTAC (Hiệp hội cho Thuế giao dịch tài chính cho viện trợ của các công dân).Thuế sau đó đã trở thành một vấn đề của phong trào công lý toàn cầu hoặc thay đổi, phong trào toàn cầu hóa và các vấn đề một cuộc thảo luận không chỉ ở các tổ chức học tập, nhưng ngay cả trong các đường phố và trong nghị viện ở Anh, Pháp, và trên thế giới. - Mô hình giá cứng trong ngắn hạn của Dornbusch:  Giả sử ngân hàng trung ương nước ngoài thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Lãi suất nước ngoài vì thế trở nên cao hơn lãi suất trong nước. Khi các nhà đầu tư quan sát thấy kết quả này, họ liền dự tính rằng đồng tiền trong nước lên giá, liền bán ngoại tệ và mua tiền trong nước vào. Hậu quả là TGHĐ định danh bằng ngoại tệ tăng vọt quá mức cân bằng dài hạn.Về lâu dài TGHĐ mới giảm xuống điểm cân bằng dài hạn.  Mô hình này chỉ ra rằng một phản ứng ngắn hạn trên thị trường ngoại hối có thể biến thành một phản ứng dài hạn như thế nào, và sự kinh doanh chênh lệch tỷ giá trên thị trường tài chính là nhân tố chính để xác định tỷ giá. Đồng thời, nó còn giúp người ta hiểu được tại sao TGHĐ lại biến động mạnh hằng ngày.  Mô hình này dựa trên một số giả thuyết quan trọng của trường phái kinh tế học Keynes, đó là những thay đổi về tiền tệ không ảnh hưởng đến khu vực tài sản Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 7 thực trong dài hạn và gía cả cứng nhắc trong ngắn hạn. Mô hình giả thiết rằng ban đầu, nhà đầu tư không hề dự tính đến việc tăng tỷ giá. Giá cả là cứng nhắc trong ngắn hạn và chỉ điều chỉnh chậm chạp hướng về điểm cân bằng dài hạn khi thị trường có một cú sốc tiền tệ, sự chu chuyển vốn là hoàn hảo. 3.2. Quy mô mẫu Năm nền kinh tế Châu Á được sử dụng làm mẫu quan sát là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Hồng Kông. Cùng với sự tham khảo và đối chiếu từ bốn nền kinh tế Mỹ Latinh là Mexico, Chile, Argentina và Brazil. 3.3. Cách chọn mẫu: Để mẫu được chọn có hiệu quả trong việc so sánh các cách thức áp dụng TGHĐ khác nhau trong khủng hoảng, tác giả đã chọn mẫu đại diện cho ba chế độ TGHĐ khác nhau bao gồm chế độ tỷ giá thả nổi, chuẩn tiền tệ và chế độ kiểm soát vốn, cụ thể được trình bày trong Bảng 1. BẢNG 1 CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI SỬ DỤNG TRONG THỜI GIAN KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ Chế độ tỷ giá Đông Á Mỹ Latinh Tỷ giá thả nổi Indonesia (Rupiah, 8.1997) Hàn Quốc (Won, 11.1997) Thái Lan (Baht, 7.1997) Brazil (Real, 12.1994) Mexico (Peso, 12.1994) Chuẩn tiền tệ Hồng Kông (Đôla, 10.1997) Argentina (Peso, 12.1994) Kiểm soát vốn Malaysia (Ringgit, 8.1997) Chile (Peso) Đối với các nước Châu Á: Mẫu thời gian được chọn là 3 năm, bắt đầu từ đầu năm 1997 và kéo dài đến năm 1999. Lý do chọn mốc thời gian trên bởi vì cuộc khủng hoảng Châu Á Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 8 bắt đầu vào tháng 7/1997, khi Thái Lan yêu cầu sự giúp đỡ của IMF. Từ Thái Lan, cuộc khủng hoảng lan sang Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Hồng Kông. Đối với các nước Mỹ Latinh: Mẫu thời gian được chọn là 3 năm, bắt đầu từ đầu năm 1994 và kéo dài đến năm 1996. Nhằm mục đích để so sánh với các nước Châu Á trong khủng hoảng, mẫu được xem xét trong khoảng thời gian trên vì khủng hoảng kinh tế Mexico năm 1994 (còn được gọi bằng tên khác là khủng hoảng Peso Mexico, là một cuộc khủng hoảng kinh tế bùng phát bằng sự mất giá nhanh chóng của Peso Mexico vào tháng 12 năm 1994 và sau đó lan ra các nền kinh tế của các nước khác. Cuộc khủng hoảng này không chỉ làm cho kinh tế Mexico chao đảo, mà còn ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế các nước Mỹ Latinh khác. Ảnh hưởng ra nước ngoài của nó được gọi là hiệu ứng Tequila. 3.4. Nghiên cứu định tính: 3.4.1. Khái niệm chi phí điều chỉnh: Trong phạm vi bài viết, thuật ngữ “chi phí điều chỉnh” được xem xét như là những mất mát gây ra bởi cuộc khủng hoảng và những chi phí mà nền kinh tế phải gánh chịu trong quá trình đưa ra và thực hiện các chính sách nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng. 3.4.2. Một số yếu tố ước lượng chi phí điều chỉnh Từ những nền kinh tế được xem xét trong mẫu được chọn, việc ước lượng những chi phí cho việc điều chỉnh ứng với mỗi chế độ TGHĐ dựa trên bốn tiêu chuẩn: + Tiêu chuẩn thứ nhất là mức độ tăng vọt của TGHĐ danh nghĩa và TGHĐ thực. + Tiêu chuẩn thứ hai là những thay đổi trong rủi ro quốc gia, được đo lường bởi phần bù rủi ro có được do quan sát độ lệch trong điều kiện ngang giá lãi suất một cách chắc chắn. + Tiêu chuẩn thứ ba là điểm mạnh của chính sách thắt chặt tiền tệ mà cần phải có trong thời kỳ khủng hoảng. Chi phí này luôn xảy ra dưới bất kỳ chế độ nào. + Tiêu chuẩn thứ tư là mức độ khốc liệt cũng như quãng thời gian của quá trình khôi phục sau khủng hoảng tiền tệ. Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 9 Việc xem xét và đo lường mức độ tác động của từng tiêu chí trên sẽ được xem xét trong phần nghiên cứu định lượng của bài nghiên cứu này. Để hiểu rõ hơn về cách thức xác định chi phí điều chỉnh, hãy cùng xem xét ví dụ về đồng Rupiah của Indonesia. Giả định rằng người dân Indonesia chỉ giữ những tài sản định danh bằng Rupiah, nhưng dân cư phần còn lại của thế giới thì nắm giữ các tài sản định danh bằng đồng Rupiah và những tài sản định danh khác bằng đồng đôla. Gọi e là tỷ giá của đồng Rupiah theo đồng đôla. Lưu ý rằng đây là sự đảo ngược của cách yết giá bình thường theo thông lệ quốc tế (Đôla/Rupiah). Gọi tài sản định danh bằng đồng Rupiah do phần còn lại của thế giới nắm giữ là Z (Rupiah). Khi đó cán cân thanh toán của Indonesia là một hàm theo TGHĐ e và số lượng nợ Z. Cán cân thanh toán nghịch biến với TGHĐ e và đồng biến với nợ Z. Trong điều kiện tăng Z thì xuất hiện bất ổn trong cán cân thanh toán của Indonesia, ta có phương trình: dZ/ dt = f (Z,e) (1) với fz 0 Phương trình cân bằng danh mục đầu tư thể hiện mối quan hệ mà cư dân phần còn lại của thế giới sẽ nắm giữ một tỷ lệ cao hơn tài sản của Indonesia trong danh mục đầu tư của họ, nếu tỷ lệ tăng giá kỳ vọng của đồng tiền Indonesia cao hơn. Tức là, biểu thị sự kỳ vọng của nhà đầu tư bằng E, ta có: (eZ)/(W + eZ) = g( π ) (2) Với π = E[(de/dt)/e], và g’( π )>0. Nếu thêm giả định E[(de/dt)/e] = (de/dt)/e, tác giả sẽ suy ra từ phương trình (2) được phương trình sau: de/dt= h(Z,e) (3) Với hz>0 và he<0 Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 10 Điều này thể hiện sự cân bằng danh mục đầu tư sẽ được xem xét khi sử dụng TGHĐ danh nghĩa e, và sự cân bằng tài khoản vãng lai sẽ được xem xét khi sử dụng TGHĐ thực tế, bởi vì tài khoản vãng lai được xem là phản ứng với TGHĐ thực tế. Trong hình 1, phương trình (1) và (3) được biểu thị bằng đường CC và PP. Đường CC biểu thị các kết hợp của e và Z nhằm giữ tài khoản vãng lai của Indonesia cân bằng, hoặc duy trì giá trị tài sản của Indonesia được nắm giữ bởi phần còn lại của thế giới là không đổi. Đây thực chất là một mối quan hệ ổn định, và giá trị của Z tăng lên phí bên trái đường CC và giảm đi phía bên phải đường CC. Đường PP biểu thị các kết hợp của e và Z nhằm duy trì sự cân bằng trong danh mục đầu tư của phần còn lại thế giới. Về bản chất, đây là một quan hệ không ổn định, và e tăng lên phía trên đường PP, giảm đi phía dưới đường PP. Việc kết hợp của hai sự cân bằng trên đã tạo ra điểm A, điểm giao nhau của CC và PP – một dạng điểm cân bằng quen thuộc trong kinh tế học. Khi có các thay đổi trong các biến ngoại sinh, TGHĐ e dao động xung quanh điểm cân bằng và cán cân thanh toán được điều chỉnh từng bước tới trạng thái cân bằng mới. HÌNH 1. Phương pháp danh mục đầu tư tiếp cận TGHĐ Trước khủng hoảng, tương lai của nền kinh tế Indonesia được kỳ vọng là tốt đẹp. Vì vậy, phần còn lại của thế giới cũng chấp nhận nắm giữ một lượng lớn nợ của Indonesia. Đường cân bằng danh mục đầu tư PP đã được đặt ở phía bên phải của hình. Trạng thái cân bằng là điểm A, tại đó nợ của Indonesia lớn và giá trị của đồng Rupiah là cao. Sau đó, nhu cầu nắm giữ tài sản của định danh bằng đồng Rupiah giảm mạnh đột ngột, và trạng thái cân Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 11 bằng mới chuyển đến điểm B. Vì chỉ có Z thay đổi chậm và e thay đổi nhanh, hướng đi của các biến được thể hiện trong quỹ đạo từ A sang B’ đến B. Như đồ thị (2A và 2B) đã thể hiện, một tình huống tương tự đã xảy ra tại nhiều quốc gia, bao gồm cả Thái Lan và Hàn Quốc. Hình 2A. Mỹ Latinh Hình 2A và 2B cho thấy những thay đổi trong TGHĐ sau sự biến động của nhu cầu tiền và sự điều chỉnh chậm chạp của tài khoản vãng lai. Hầu hết các quốc gia đang xét (ngoại trừ Brazil và Chile) đã cho tác giả thấy sự nhảy vọt của TGHĐ và sự đảo chiều tài khoản vãng lai từ thâm hụt đến thặng dư. Lý do dẫn đến sự biến động trên là khi mà những người tham gia thị trường bất ngờ nhận ra rằng họ đã quá lạc quan về thu nhập của một quốc gia ở tương lai, đường CC (thể hiện bởi phương trình 1) dịch chuyển sang bên trái vì người ta không nghĩ là mình sẽ nhận được một mức lợi tức trong lương tai từ việc đầu tư của họ. Hơn nữa, đường PP (thể hiện bởi phương trình 3) di chuyển xuống nhiều hơn, cho thấy sự sụt giảm nhanh chóng của TGHĐ. Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 12 Hình 2A. (tiếp theo) Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 13 HÌNH 2A. (tiếp theo) Kiểm soát vốn sẽ làm thay đổi độ dốc của đường PP và tốc độ điều chỉnh của mô hình. Sự thay đổi trong “Thuế Tobin” (kí hiệu: τ) trong tất cả các giao dịch vốn sẽ dùng g(1-τ)π) để thay thế cho g(π). Ta có thể dễ dàng nhìn vào đồ thị và thấy rằng hướng di chuyển trong đồ thị trở nên dốc hơn. Trong mô hình này, thuế đánh trên sự chuyển dịch vốn sẽ làm tăng tính biến động của TGHĐ hơn là giảm chúng. Mặc khác, nếu việc kiểm soát dòng vốn ra được áp dụng, điển hình như ở Malaysia, làm cho đường PP di chuyển sang phải và tại điểm cân bằng mới TGHĐ sẽ bước đầu tăng lên. Tỷ giá tăng lên này liệu có được bù đắp bởi sự miễn cưỡng đầu tư của các nhà đầu tư tương lai hay không? Bài nghiên cứu Tài chính quốc tế Nhóm 5 – NH Đêm 3 Trang 14 HÌNH 2B. Đông Á Trong trường hợp kiểm soát dòng vốn vào của Chile, điều này gây ra sự hạn chế trong việc duy trì dòng vốn vào. Hơn nữa, việc kiểm soát vốn có khuynh hướng làm giảm giá đồng nội tệ. TGHĐ cố định, bao gồm cả chế độ chuẩn tiền tệ, làm