Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình. Trong đó, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời. Phương pháp này đã dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không thấy được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Còn phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật, hiện tượng là những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng.
Trong lịch sử triết học đã từng có thời kỳ tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trên toàn bộ lịch sử triết học, thì phương pháp biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt, là phương pháp xuyên suốt trong đời sống tinh thần xã hội của nhân loại. Vì vậy nó cũng phát triển từ thấp đến cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mácxít của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết bất khả tri, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin và sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể thì quá trình cải tạo và biến đổi xã hội mới mang tính cách mạng triệt để. Vì vậy, việc nghiên cứu về lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại.
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5056 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự phát triển của phép biện chứng trong triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC TRIẾT HỌC MÁC 3
1.1. Phép biện chứng thời cổ đại 3
1.1.1. Triết học Trung Hoa cổ đại 3
1.1.2. Triết học Ân Độ cổ đại 5
1.1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại 6
1.2. Phép biện chứng thời kỳ Phục hưng và cận đại ở Tây Âu 11
1.3 Phép biện chứng cổ điển Đức 13
CHƯƠNG 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁC XÍT 16
2.1. Những tiền đề về kinh tế- xã hội, lý luận, khoa học cho sự ra đời phép biện chứng duy vật. 16
2.2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 17
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng 20
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình. Trong đó, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời. Phương pháp này đã dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không thấy được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Còn phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật, hiện tượng là những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng.
Trong lịch sử triết học đã từng có thời kỳ tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trên toàn bộ lịch sử triết học, thì phương pháp biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt, là phương pháp xuyên suốt trong đời sống tinh thần xã hội của nhân loại. Vì vậy nó cũng phát triển từ thấp đến cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mácxít của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết bất khả tri, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin và sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể thì quá trình cải tạo và biến đổi xã hội mới mang tính cách mạng triệt để. Vì vậy, việc nghiên cứu về lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Từ mục đích đó em chọn đề tài tiểu luận: “Sự phát triển của phép biện chứng trong triết học”.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC TRIẾT HỌC MÁC
Phép biện chứng thời Cổ đại.
Phép biện chứng thời Cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ và mang tính trực quan, được hình thành trên cơ sở quan sát tự nhiên, xã hội hoặc thông qua kinh nghiệm bản thân. Thời Cổ đại có ba trung tâm triết học lớn nhất bấy giờ là: Triết học Trung Hoa cổ đại, Triết học Ấn Độ cổ đại, Triết học Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh những đặc điểm chung, do đặc điểm văn hoá cũng như hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên sự thể hiện tư tưởng biện chứng trong hệ thống triết học ở mỗi trung tâm đều có những đặc điểm riêng không giống nhau.
1.1.1 Triết học Trung Hoa cổ đại
Triết học Trung Hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có tới 103 trường phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Quốc lúc đó là xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên Triết học Trung Hoa cổ đại tập trung vào giải quyết các vấn đề về chính trị - xã hội. Những tư tưởng biện chứng thời kỳ này chỉ thể hiện khi các nhà triết học kiến giải các vấn đề về vũ trụ quan.
Thuyết Âm- Dương là một học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sơ khai, tự phát nhưng rất sâu sắc của người Trung Quốc cổ đại. Một trong những nguyên lý cơ bản nhất của học thuyết này là nhìn nhận mọi sự tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập Âm - dương, Âm - dương không loại trừ, không biệt lập mà bao hàm nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Sự tương tác lẫn nhau giữa Âm - dương các mặt đối lập làm cho vũ trụ biến đổi không ngừng. Đây là quan điểm tư tưởng biện chứng sâu sắc. Học thuyết này cũng cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên lý phân đôi các thể thống nhất. Điều đó có nghĩa là giữa cái đa và cái duy nhất có sự cân bằng. Thế giới có tính chỉnh thể, toàn vẹn, thống nhất giữa những cái bất biến và những cái hằng biến. Bằng mô hình Thái cực, người Trung Quốc đã giải thích sự biến hóa của vũ trụ như sau: Thái cực( thể thống nhất) phân đôi thành Lưỡng nghi (Âm - Dương). Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (thái âm- thiếu âm, thái dương- thiếu dương). Tứ trụ lại sinh ra Bát quái( Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) và từ Bát quái sinh ra vạn vật.
Tuy nhiên, học thuyết Âm - dương cho rằng sự vận động của vạn vật đều diễn ra theo chu kỳ lặp lại, không có sự phát triển đi lên. Hơn nữa, học thuyết Âm - dương còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí như quan điểm “Thiên tôn địa ty” cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của trời đất, họ đem trật tự xã hội gán cho giới tự nhiên, rồi lại dùng học thuyết bịa đặt đó chứng minh cho sự hợp lý của chế độ đẳng cấp xã hội.
Học thuyết Âm - dương, mặc dù còn có những tính chất trực quan, chất phác ngây thơ và tồn tại nhiều quan điểm duy tâm thần bí về xã hội, nhưng học thuyết Âm - dương đã bộc lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.
Nói đến tư tưỏng biện chứng chất phác, chúng ta không thể không nói đến Đạo gia. Đạo gia là trường phái mang tính triết học nhiều nhất trong các hệ thống triết học Trung Hoa với những đại biểu điển hình là: Lão tử, Trang Tử, Dương Chu. Vì vậy, mà người ta hay gọi Đạo gia là đạo Lão Trang.
Quan điểm của Đạo gia về vũ trụ quan: Đạo gia cho rằng có một chúa tể vô hình và tối cao không hình thù không bản sắc, là nguyên nhân, là đầu mối của vạn vật. Đạo gia gọi chúa tể này là “Đạo”- con đường biến hoá của vạn vật. Đạo sáng tạo ra vạn vật. Vạn vật nhờ có Đạo mà sinh ra, sự sinh sản ra vạn vật theo trình tự “đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật”. Trong mỗi sự vật hiện tượng luôn bao hàm các mặt đối lập. Vạn vật “bồng âm” và “cõng dương”, không có vật nào thuần âm hoặc thuần dương. Quy luật biến hoá của vạn vật là “ phản giả đạo chi động” (luôn luôn có động thái muốn quay trở về gốc, về điểm xuất phát của mình).
Như vậy, tư tưởng biện chứng của Đạo gia thể hiện ở: Một là, những cái đối lập tồn tại dựa vào nhau, thống nhất với nhau, do vậy trừ bỏ được một mặt trong đó thì cũng tức là trừ bỏ được mặt kia. Hai là, muốn cho một vật nào đó suy tàn thì trước hết hãy làm cho nó tạm thời hưng thịnh lên đã, đến điểm tột cùng nó sẽ chuyển sang mặt đối lập( tức suy tàn).
Đạo gia đã có những tư tưởng biện chứng chất phác nhưng chưa trở thành hệ thống. Trong tư tưởng chính trị- xã hội của Đạo gia còn chứa nhiều yếu tố bảo thủ, thậm chí là phản động( khuyên con người sống vô vi, thuận theo tự nhiên, thủ tiêu đấu tranh giai cấp).
Tóm lại, tư tưởng biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại mang tính tự phát, sơ khai, nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa tự nhiên, xã hội và nhân sinh. Đa số các nhà triết học đều nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các sự vật, coi việc điều hòa mâu thuẫn là muc tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Đây cũng là tư duy điển hình của người phương Đông trong suốt chiều dài lịch sử.
1.1.2. Triết học Ấn Độ cổ đại
Đây là hệ thống triết học có sự đan xen giữa triết học với tôn giáo và giữa các trường phái khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể hiện dưới hình thức là một tôn giáo. Trong các trường phái tôn giáo ở Ấn Độ thì Phật giáo mang tính duy vật và biện chứng sâu sắc của nền triết học cổ đại Ấn Độ.
Phật giáo được hình thành từ thế kỷ VI TCN, do thái tử Tất Đạt Đa tên hiệu là Thích Ca Mâu Ni (563-483 TCN) khai sáng. Phật giáo cho rằng vạn vật trên thế giới không do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà được tạo ra bởi hai yếu tố là Danh (tinh thần) và Sắc (vật chất). Trong đó Danh bao gồm tâm và thức, còn Sắc bao gồm bốn đại (đại thuỷ, đại địa, đại hoả, đại phong). Chính nhờ quan điểm nêu trên mà Phật giáo được coi là tôn giáo có tư tưởng biện chứng duy vật sơ khai.
Triết học Phật giáo có yếu tố vô ngã, vô thường. Vô ngã là không có cái tôi bất biến, cách nhìn này hoàn toàn đối lập với cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo đưa ra nguyên lý về mối liên hệ nhất định: không có cái nào là biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau. Vô thường là nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái gì là đứng im. Quy luật vô thường của mọi tồn tại là: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Đây là phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại.
Quy luật nhân - quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định và phổ biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Theo trường phái Samkhya, Prakriti( hay Pradhana) là vật chất đầu tiên, nó không phải là vật chất ở dạng thô hay rõ ràng có thể nhận thức bằng cảm giác, mà là vật chất ở dạng tinh tế, tiềm ẩn vô định hình và trong nó chứa đựng khả năng tự biến hoá. Vật chất là vĩnh hằng nhưng không đứng yên, biến đi không nhừng từ dạng này sang dạng khác. Prakriti không ngừng biến hoá, phát triển trong không gian theo luật nhân - quả dẫn tới xuất hiện tính đa dạng của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa.
Tóm lại, Triết học Ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của nhân loại thời kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần đã manh nha hình thành tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này cũng bộc lộ những hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử, có yếu tố duy tâm….
1.1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI TCN. Cơ sở kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học…Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị của Hy Lạp lúc bấy giờ sôi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước khác nhau trên Địa Trung Hải. Sự tiếp xúc với đời sống sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nước ấy đã góp phần quyết định và làm phát triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm hiếu các tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại diện cơ bản sau đây:
• Talét (625-547 TCN):
Talet là đại biểu tiêu biểu của trường phái triết học Mile. Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự phát. Ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi tồn tại đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng của vòng tuần hoàn đó. Tuy nhiên, các quan điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính.
• Hêraclít ( 540- 480 TCN)
Theo các nhà kinh điển Mác- Lênin thì Hêraclit là người sáng lập phép biện chứng và ông xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Thứ nhất: Quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều ở trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại, ông từng nói: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông” và “Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới”….
Thứ hai: Hêraclit thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập, trong các mối quan hệ khác nhau, chúng chuyển hóa, liên hệ và tác động lẫn nhau. Chẳng hạn, “đối với loài cá - ông nói - thì nước là rất cần thiết cho sự sống, nhưng đối với con người thì đó là một loại độc tố có hại”, cũng như “một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là xấu nếu đem so với con người”. Sự xuất hiện của mặt đối lập này là quy định sự xuất hiện của mặt đối lập kia: “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi thú vị hơn”. Song sự vận động biến hóa trong quan niệm của Hêraclit chỉ dừng lại trong vòng tuần hoàn, khép kín của tự nhiên. Ông chưa biết đến sự phát triển tiến lên, nhưng đó cũng là do sự giới hạn của lịch sử.
Thứ ba: Theo Hêraclít, sự vận động và phát triển của thế giới là do quy luật( logos) quy định. Logos khách quan là trật tự kết quả mọi cái đang diến ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Tuy nhiên, ông lại có hạn chế về mặt chính trị, thù địch với nhân dân và ông chủ trương dùng chính quyền để nhanh chóng dập tắt phong trào dân chủ.
Đêmôcrít (460-370 TCN)
Ông là một trong những người đã phát triển học thuyết nguyên tử lên một trình độ mới, ông kế thừa quan điểm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật đều biến đổi không ngừng. Đêmôcrít đã đưa ra lý thuyết về vũ trụ học: Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử triết học.
Ông khẳng định: Vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới phát sinh, phát triển và bị tiêu diệt, quan điểm của ông về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng đoán có giá trị đặc biệt. Theo ông, vận động của nguyên tử là vĩnh viễn và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử là bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy nhiên, ông đã không lý giải được nguồn gốc của sự vận động. Dựa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đã đi tới quan điểm quyết định luận, đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và khách quan của các hiện tượng tự nhiên. Đây là một quan điểm có giá trị của Đêmôcrít đống góp cho nền triết học Hi Lạp cổ đại.
Mặc dù triết học Đêmôcrít còn mang tính thô sơ, chất phác nhưng những đóng góp của ông về các tư tưởng biện chứng và thề giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận.
Platôn (427-347TCN)
Platôn là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất nhất thời cổ đại. Ông được coi là nhười mở đầu cho siều hình học ở phương Tây. Các quan điểm triết học của ông chứa đựng những yếu tố biện chứng. Ông thừa nhận sự vận động của thế giới song đó chỉ là vận động theo sự điều khiển của ý niệm. Ông chia thế giới thành hai loại:
- Thế giới của ý niệm: là thế giới tồn tại chân thực bất tử, tuyệt đối và là cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính.
- Thế giới của các sự vật cảm tính: là thế giới tồn tại không chân thực, thường xuyên biến đổi và phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm.
Đặc biệt, trong lý luận nhận thức của Platôn về cơ bản đó là: nhận thức là sự hồi tưởng, là sự liên hệ các chân lý được hồi tưởng lại. Cái chủ yếu nhất trong phương pháp hồi tưởng lại là nghệ thuật suy diễn lôgic, đàm thoại triết học hay còn gọi là nghệ thuật biện chứng. Platôn đã phát triển quan niệm của Xôcrat về phép biện chứng như một nghệ thuật tranh luận, ông hiểu nó theo hai khía cạnh: Thứ nhất, đó là kỹ năng đặt câu hỏi và giải đáp. Thứ hai, đó là khả năng sử dụng và tiếp cận các khái niệm, tổng hợp các quan điểm khác nhau trong tranh luận để đi đến ý tưởng thống nhất, xem tranh luận là phương tiện để đi tới chân lý. Phép biện chứng ở Platôn “không phải là thứ biện chứng mà trước đây chúng ta tìm thấy ở các nhà ngụy biện, những người nói chung đã lầm lẫn các quan niệm… mà là phép biện chứng vận động trong các khái niệm thuần túy, đó là vận động lôgic tự biện”. Nhưng đó là phép biện chứng duy tâm, biện chứng của các khái niệm, tách rời hiện thực, từ bỏ cảm giác, chỉ nhận thức bằng tư duy thuần tuý.
Tóm lại, mặc dù tư tưởng biện chứng của Platôn mang tính duy tâm khách quan nhưng đó lại là một hệ thống triết học khá hoàn chỉnh và nhất quán. Nó đối lập hoàn toàn với hệ thống triết học duy vật của Đêmôcrit về mọi lĩnh vực: bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức học, quan niệm chính trị - xã hội. Điều này tạo nên cuộc đấu tranh điển hình giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học. Triết học của Platôn đã có công lớn tròn việc khẳng định bản chất, vai trò của khái niệm. Ông đặt nền móng cho việc xây dựng các phạm trù và tư duy lý luận nói chung.
Arixtốt ( 384- 322 TCN)
Arixtốt là bộ óc bách khoa toàn thư của triết học cổ đại Hy Lạp, người đầu tiên khám phá ra những quy luật sơ đẳng của tư duy biện chứng. Đây là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của thời cổ Hy Lạp.
Xu hướng duy vật và phát triển biện chứng trong triết học của Arixtốt thể hiện ở chỗ: ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi, không có bản chất sự vật tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với các sự vật khác. Ông cho rằng vận động gắn liền với các vật thể, với mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận động là không thể bị tiêu diệt “đã có vận động và mãi mãi có vận động”. Ông đã tiến gần đến quan niệm vận động là tự thân của vật chất. Song cuối cùng ông lại rơi vào duy tâm khi cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi sự vận động. Ông là người đầu tiên hệ thống hoá các hình thức vận động ở sáu dạng khác nhau.
Về logic học, Arixtốt đã có gắng giải thích mối quan hệ thống nhất mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nhưng ông không giải quyết được vấn đề chuyển hoá từ cái riêng thành cái chung. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô Hy Lạp cho nên về bản thể luận triết học ông giao động giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật nên ông lại rơi vào phái nhị nguyên luận.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cố đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Với những tư tưởng nổi bật như thuyết nguyên tử của Đêmôcrít, phép biện chứng của Hêraclit, của Platôn, biện chứng chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã hàm chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong lịch sử triết học nhân loại. Ăngghen đã đánh giá: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh…Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác, tự nhiên, chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu…Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết, đối với họ mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”. Do đó, nên coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử phép biện chứng.
1.2 Phép biện chứng thời kỳ Phục hưng và cận đại ở Tây Âu
Trước khi bước sang thế kỷ XV- XVI ở Châu Âu là thời đại Phục hưng, lịch sử triết học đã trải qua thời kỳ trung cổ với sự thống trị của tư tưởng thần học. Do đó, chủ nghĩa kinh viện trở thành nét chủ đạo của Triết học Tây Âu thời trung cổ, tất cả vạn vật đều do Chúa trời và thần thánh tạo nên. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục lại quan điểm duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm.
Tuy nhiên, phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển về “sự phù hợp c