Đại hội Đảng VI đã mở ra một trang mới cho lịch sử kinh tế Việt Nam. Bước
ngoặt này có ý nghĩa trọng đại: Biến nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu bao cấp, thành nền kinh tế thị trường định h ướng xã hội chủ nghĩa.
Bước ngoặt này đánh dấu sự thay đổi, phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội
Việt Nam. Sự phát triển này phải chăng là kết quả của Việt Nam trước Đại hội Đảng
VI? Và sự phát triển nào phải chăng cũng cần trải qua một thời kỳ gọi là. Thời kỳ
quá độ?
Lênin - Nhà lãnh đạo lỗi lạc - nhà quản lý xã hội thiên tài đã luôn luôn nhìn
xã hội bằng con mắt của nhà quản lý, và với tầm nhìn chiến lược hàm chứa phép
biện chứng sâu sắc. Ông luôn luôn muốn thay thế xã hội bằng xã hội khác tốt hơn.
Bởi vậy ông đã nói” “Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập”.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn
liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: Biện chứng và siêu hình. Chính
cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát
triển và hoàn thiền dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Triết học khi nói đến phát triển thì luôn chú ý đến nguồn gốc và động lực của
phát triển và khuynh hướng của sự phát triển.
Sự đòi hỏi của các yếu tố khách quan trong sự phát triển của sự vật hiện
tượng đó là mâu thuẫn tất yếu biện chứng. Phép biện chứng nói rằng: Sự vật nào
cũng có mặt trái ngược, cũng chứa động mâu thuẫn bên trong của nó, bản thân sự
vật, cả trong tự nhiên và trong xã hội.
14 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3442 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập" từ luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Việt Nam trong thời kỳ quá độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các
mặt đối lập" từ luận điểm trên làm rõ cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của
Việt Nam trong thời kỳ quá độ
Lời mở đầu
Đại hội Đảng VI đã mở ra một trang mới cho lịch sử kinh tế Việt Nam. Bước
ngoặt này có ý nghĩa trọng đại: Biến nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu bao cấp, thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bước ngoặt này đánh dấu sự thay đổi, phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội
Việt Nam. Sự phát triển này phải chăng là kết quả của Việt Nam trước Đại hội Đảng
VI? Và sự phát triển nào phải chăng cũng cần trải qua một thời kỳ gọi là. Thời kỳ
quá độ?
Lênin - Nhà lãnh đạo lỗi lạc - nhà quản lý xã hội thiên tài đã luôn luôn nhìn
xã hội bằng con mắt của nhà quản lý, và với tầm nhìn chiến lược hàm chứa phép
biện chứng sâu sắc. Ông luôn luôn muốn thay thế xã hội bằng xã hội khác tốt hơn.
Bởi vậy ông đã nói” “Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập”.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn
liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: Biện chứng và siêu hình. Chính
cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát
triển và hoàn thiền dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Triết học khi nói đến phát triển thì luôn chú ý đến nguồn gốc và động lực của
phát triển và khuynh hướng của sự phát triển.
Sự đòi hỏi của các yếu tố khách quan trong sự phát triển của sự vật hiện
tượng đó là mâu thuẫn tất yếu biện chứng. Phép biện chứng nói rằng: Sự vật nào
cũng có mặt trái ngược, cũng chứa động mâu thuẫn bên trong của nó, bản thân sự
vật, cả trong tự nhiên và trong xã hội.
Trong các mặt đối lập bao giờ cũng có sự đấu tranh gạt bỏ lẫn nhau. Phép
biện chứng đã tìm thấy sự thấp nhất giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập tồn tại
không tách rời nhau mà lẫn vào nhau, thâm nhập trong nhau, mặt này chứa đựng
mầm mống của mặt kia, chúng tác đọng qua lại lẫn nhau làm điều kiện cho nhau tồn
tại và phát triển. Sự phát triển từ cái này thành cái khác cần một thời kỳ gọi là thời
kỳ quá độ. Trong nền kinh tế sự phân công lao động toạ ra mối quan hệ hữu cơ giữa
người và người tạo ra sự phát triển xã hội. Lênin nói “Do phân công lao động, ai lo
cho người ấy, mọi người vì một người, một người vì mọi người, và phải tìm thấy
mình trong người khác, còn chúa không thể lo cho người được".
Thời kỳ quá độ hiện nay ở Việt Nam là thời kỳ ủ mầm của một xã hội phát
triển, trong đó phân công lao động đang diễn ra mạnh mẽ, đó là sự đấu tranh giữa
những mặt đối lập của cơ chế cũ, và đang báo hiệu một tương lai tươi sáng, một nền
kinh tế phát triển bền vững.
Đề tài: Lênin nói "Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập" từ
luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Việt Nam trong
thời kỳ quá độ"
I. quy luật thống nhất và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập của phép biện chứng
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền
với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy - biện chứng và siêu hình. Chính
cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát
triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp.
Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách
quan mà còn chỉ ra những thách thức để định hướng cho con người trong nhận thức
thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những
thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá
trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày
một cách có hệ thống chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những
phạm trù và những quy luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy).
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận
chỉ đạo mọi hoạt động của con người, trong đó, quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng.
Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển; phản ánh quá trình đấu
tranh giải quyết mẫu thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu
thuẫn mà ý đồ cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước
hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải quyết mâu
thuẫn. Lênin nói "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập". Tuy
nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và
hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Theo quan điểm biện chứng thì sự vật nào cũng là một thể thống nhất của các
mặt đối lập, tức là, các mặt có xu hướng, khuynh hướng trái ngược nhau. Chính sự
tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn sự vật.
Khi nói mâu thuẫn biện chứng là nói đến mâu thuẫn tất yếu của những mặt trái
ngược nhau, ví dụ, điện có cực âm, cực dương… Trong các mặt đối lập, chúng vừa
đấu tranh với nhau (với nghĩa tác động theo xu hướng trái ngược nhau) nhưng các
mặt đối lập lại là thống nhất với nhau.
Thống nhất là tồn tại không tách rời nhau, làm điều kiện cho nhau tồn tại, phát
triển, có mặt này thì mới có mặt kia. Thống nhất còn bao hàm thâm nhập nhau, trong
mặt này chứa đựng mầm mống mặt kia, cho nên, chúng ta không nên tạo ra hàng rào
tuyệt đối giữa các mặt đối lập mà phải thấy được có sự chuyển hoá giữa các mặt đối
lập. Chuyển hoá có trình độ từ thấp đến cao và dẫn đến sự chuyển hoá cuối cùng,
tức là khi mâu thuẫn đã được giải quyết. Chuyển hoá cuối cùng có hai hình thức cơ
bản: hình thức thay đổi vị trí cho nhau và hình thức các mặt đối lập cũ mất đi và
hình thành những mặt đối lập mới.
Hầu hết các nhà triết học đều cho rằng thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập đều có vai trò trong sư phát triển của sự vật. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn phát
triển mà ta phải nhấn mạnh mặt này hay mặt kia. Khi sự vật còn ở giai đoạn phát
triển, khi mâu thuẫn chưa gay gắt thì khi đó mặt thống nhất giữ vai trò chủ đạo, còn
khi mâu thuẫn trở nên gay gắt, đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn lại là chủ đạo,
chính yếu.
Ngày nay, sự "thống nhất" của các mặt đối lập ngày càng mở rộng. Những giải
pháp khoa học và kỹ thuật tiên tiến, những vấn đề toàn cầu… tạo ra môi trường
thuận lợi cho sự mở rộng đó. Vì vậy, bước chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không mang những hình thái đặc thù: có thể cho
phép các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua một hay nhiều giai
đoạn nào đó trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa.
II. Vận dụng quy luật mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Đặc điểm cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế
nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính
chất quá độ. Nó không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn
toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
2.1. Tính tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế (TPKT) ở Việt Nam
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ
vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước và
phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất
này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị.
Thành phần kinh tế là một loại hình của quan hệ sản xuất xác định tương ứng
với trình độ và trình độ của lực lượng sản xuất nhất định đã ra đời nhưng chưa đạt
tới độ thống trị trong nền kinh tế hoặc đang bị thủ tiêu dần.
Như vậy, phạm trù thành phần kinh tế và phương thức sản xuất đều phản ánh
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng không
đồng nhất về nội dung. Trong thời kỳ quá độ, mỗi phương thức sản xuất khi chưa
hoặc không đóng vai trò thống trị, cũng không bị trị, lệ thuộc mà tồn tại như những
"bộ phận", những "mảnh" trong mối quan hệ vừa thống nhất "xen kẽ", vừa đấu tranh
bài trừ gạt bỏ, phủ định lẫn nhau của kết cấu kinh tế xã hội, thì đó là thành phần
kinh tế. Khi một thành phần, một bộ phận nào đó giữ một vai trò thống trị đối với
các thành phần (bộ phận, hình thức kinh tế khác) thì nó là một phương thức sản xuất
đại diện cho hình thái kinh tế - xã hội đó.
Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nền kinh tế - xã hội nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế là vì các lý do
sau:
- Khi giành chính quyền thì chính quyền mới tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa
trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, gồm hai loại là tư hữu lớn (kinh tế tư bản chủ
nghĩa) và tư hữu nhỏ (sản xuất nhỏ cá thể). Phương thức sản xuất cũ chưa thể mất
đi, do đó tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế cá thể, thành
phần kinh tế hợp tác.
- Trong một nền kinh tế thì các ngành, vùng kinh tế phát triển không đều về
lực lượng sản xuất, tương ứng với nó là những quan hệ sản xuất, đó chính là cơ sở
nảy sinh các thành phần kinh tế khác nhau.
- Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế - chính trị, các nước đều cần đầu tư của nước
ngoài, hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, đó là sự kết hợp đầu tư giữa
nhà nước với các nhà tư bản, các công ty trong nước và ngoài nước.
- Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn; để giữ vững chính
quyền cộng sản thì phải xây dựng thành phần kinh tế mới là kinh tế quốc doanh hay
kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác
đóng vai trò tích cực trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội.
2.2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam
Trên cơ sở nhận biết được tính tất yếu của việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế
ở Việt Nam, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã xác định nước ta hiện
nay có 6 thành phần kinh tế như sau:
2.2.1. Thành phần kinh tế nhà nước
- Là thành phần kinh tế mà vốn chủ yếu dựa trên sở hữu nhà nước hoặc phần
sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế Nhà nước gồm hai loại: Doanh
nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (tài nguyên thiên nhiên, cơ
sở hạ tầng, tài chính, dự trữ nhà nước…)
- Đặc điểm:
+ Thuộc sở hữu nhà nước
+ Thường bảo đảm những cân đối lớn trong nền kinh tế
+ Vai trò: chủ đạo, mở đường, duy trì bộ máy nhà nước.
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài và có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
2.2.2. Thành phần kinh tế hợp tác.
- Là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa
dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia, có
thể dẫn tới hoặc không dẫn tới pháp nhân. Nòng cốt của thành phần kinh tế này là
hợp tác xã: HTX nông nghiệp, thủ công, cổ phần…
- Đặc điểm:
+ Sở hữu hỗn hợp
+ Là hình thức kinh tế linh hoạt, hiệu quả
+ Một chủ thể có thể tham gia vào nhiều hợp tác xã.
+ Sản xuất kinh doanh dịch vụ ở tất cả các ngành trong nền kinh tế
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài, có thể trở thành kinh tế tư bản tư nhân
hoặc kinh tế tư bản Nhà nước.
2.2.3. Thành phàn kinh tế tư bản nhà nước
- Là thành phần kinh tế mà Nhà nước và các nhà tư bản trong và ngoài nước
hợp tác đầu tư qua việc liên doanh liên kết.
- Đặc điểm
+ Sở hữu hỗn hợp
+ Có sức mạnh về vốn, công nghệ, thị trường
+ Sản xuất kinh doanh chủ yếu ở những ngành có lợi nhuận cao
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh, tạo ra những ngành nghề, sản
phẩm mới.
- Xu hướng vận động: tồn tại lâu dài, có thể chuyển hoá thành phần kinh tế tư
bản tư nhân hoặc kinh tế nhà nước.
2.2.4. Thành phần kinh tế cá thể
- Là thành phần kinh tế hs sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động
của bản thân là chính.
- đặc điểm:
+ Từ hữu nhỏ.
+ Người có sức lao động đồng thời là người có vốn, nếu có thuê thêm lao động
thì gọi là tiểu chủ.
+ Hết sức manh mún và lệ thuộc.
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài, có thể chuyển hoá thành kinh tế hợp tác,
tư bản tư nhân hoặc kinh tế Nhà nước.
2.2.5. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:
- Là thành phần kinh tế mà vốn do các nàh tư bản trong và ngoài nước đầu tư.
- Đặc điểm:
+ Tư hữu lớn.
+ Thuê và bóc lột lao động làm thuê.
+ Thường chỉ kinh doanh những ngành ít vốn, lãi cao.
+ Mạnh về vốn, linh hoạt.
- Xu hướng vận động: Tồn tại lâu dài, xã hội đòi hỏi phát triển thành phần kinh
tế này, có thể chuyển thànah kinh tế hợp tác, kinh tế Nhà nước hoặc tư bản Nhà
nước.
2.2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành phần kinh tế này bao gồm phần vốn đầu tư của nước ngoài vào các cơ
sở sản xuất, kinh doanh ở nước ta. Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này
có thể có 100% vốn đầu tư nước ngoài, có thể liên kết, liên doanh, vói doanh nghiệp
Nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân ở nước ta.
Thành phần kinh tế này được tạo điều kiện phát triển thuận lợi, hướng vào suất
khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại,
tạo thêm nhiều việc làm. So với Đại hội VIII, Đại hội IX đã tách thành một thành
phần kinh tế riêng không để trong thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
Đại hội IX cũng chỉ có: "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cùng phát triển
lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đoạ. kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.
2.3. Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế.
Nền kinh tế hàng hoá quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế với
những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất, vừa thống nhất lại vừa mâu
thuẫn với nhau.
Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện:
- Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập nhau, mà
gắn bó đan xem xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế, vì chúng đều
là các bộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất.
- Mỗi thành phần kinh tế có vai trò và chức năng của nó trong đời sống kinh tế
- xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn vì yếu tố điều tiết thống nhất
của hệ thống các quy kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống
nhất.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế này tồn tại trong mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa
các thành phần kinh tế với nhau thể hiện ở:
+ Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu.
+ Mâu thuẫn giữa tư nhân với tập thể, với Nhà nước.
+ Mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển. Trong hệ thống
thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng những sự đối lập, những khuynh
hướng đối lập, một mặt bài trừ phru định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau; mặt khác,
chúng thống nhất với nhau, thâm nhập, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển
thông qua hợp tác và cạnh tranh, liên doanh, liên kết.
Các thành phần kinh tế đều được thừa nhận tồn tại khách quan và Nhà nước
tạo điều kiện và môi trường để chúng tồn tại trên thực tế. Đồng thời, các thành phần
kinh tế cần được bình đẳng trước pháp luật.
Tuỳ khả năng và trình độ xã hội hoá từng thành phần kinh tế và sự đan xen liên
kết đa dạng lẫn nhau giữa chúng, giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển sản xuất và lưu thông, phát triển và mở rộng thị
trường, tạo ra công ăn việc làm, khối lượng sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân.
Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư
cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo
quỹ đạo chung, chịu sự quản lý của Nhà nước.
Cần phân biệt các thành phần kinh tế vì từ đặc điểm lịch sử hình thành và bản
chất vốn có của mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò, chức năng, tiềm năng, xu
hướng phát triển khác nhau. Chính sự khác nhau đó là cơ sở để phân biệt các thành
phần kinh tế, nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng teieu cực của
chúng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Và chỉ có đường lối, chính sách phân biệt
như vậy mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Phải nhấn mạnh rằng, không chỉ phân biệt các thành phần kinh tế mà nội
dung từng thành phần kinh tế càng phải phân biệt. Khi phân tích chính sách của
Đảng với nông dân, Lênin chỉ rõ "phải phân biệt và phân định rõ ranh giới giữa
người nông dân lao động với người nông dân con buôn, giữa người nông dân cần
lao động với người nông dân đầu cơ. Tất cả thực chất của chủ nghĩa xã hội nằm
trong sự phân định ranh giới đó".
Như vậy, toàn bộ hoạt động của Nhà nước thực hiện trước hết bằng pháp luật,
các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý,
các biện pháp, phương tổ chức thực hiện… Không thể không tín đến sự nhất quán
giữa các thành phần kinh tế và sự phân biệt giữa chúng,. Trong sự thống nhất đã
chứa đựng sự phân biệt và phân biệt giữa chúng. Trong sự thống nhất đã chứng
đựng sự phân biệt để thống nhất.
Kết luận
Thừa nhận sự tồn tại của 6 thành phần kinh tế dựa trên 3 hình thức sở hữu cơ
bản về tư liệu sản xuất cũng có nghĩa là thừa nhận cả những xu hướng vận động
khác nhau của mỗi thành phần kinh tế vì lợi ích riêng của chúng, trong đó tiềm ẩn cả
khả năng phát triển theo hướng TBCN. Điều đó càng trở nên hiện thực trong xu thế
toàn cầu hoá với sự chi phối của các thế lực tư bản tài chính quốc tế mong muốn
thúc đẩy sự phát triển kinh tế nước ta theo con đường tư nhân hoá. Do đó, quan hệ
sản xuất mới từng bước được xác lập phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất, kinh
tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở
thành nền tảng của nền kinh tế, kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác
nhau tồn tại phổ biến, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng
đáng kể. Như vậy, cần quán triệt một số yêu cầu cơ bản sau:
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong
và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế
- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích
phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế
hợp tác, làm cho kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với nền kinh tế hợp tác
xã dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Tạo điều kiện để các nhà
kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài. áp dụng phổ biến các hình
thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền
sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực
khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
- Tăng cường hiệu quả quản lý vĩ mô của nhà nước, phát huy mặt tích cực của
cơ chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của
mọi doanh nghiệp và cá nhân, không phân biệt thành phần kinh tế.