Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát
triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà gắn với nó là cuộc đấu tranh
giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình – tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “lôgíc nội tại khách
quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó
đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cộng nhân và
nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó
đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sử phát triển triết học của nhân loại. C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa một cách có
phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học
triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây dựng triết
học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã
hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen
đã thực hiện trong triết học. Vì vậy em đã chọn nghiên cứu đề tài “Sự ra đời của triết
học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học” cho bài tiểu
luận của mình.
Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của Thầy để em có thể
hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình.
36 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10002 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự ra đời của triết học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CAO HỌC KHÓA 19 – ĐÊM 1
---ooOoo---
ÑEÀ TAØI TIEÅU LUAÄN
Giaûng vieân höôùng daãn: TS. BUØI VAÊN MÖA
SV thöïc hieän: Nguyeãn Thò Kim Phöôïng
Tháng 03 năm 2010
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
NỘI DUNG .................................................................................................................... 2
Phần I: Những tiền đề xuất hiện trước Mác ................................................................ 2
1. Tiền đề về kinh tế - xã hội .................................................................................... 2
2. Tiền đề về lý luận ................................................................................................. 4
3. Tiền đề về khoa học tự nhiên ............................................................................... 6
Phần II: Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học
Mác - Lênin .................................................................................................................... 8
1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng
sản ........................................................................................................................ 8
2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử ........................................................................................................................ 12
3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học .................. 16
4. Giai đoạn Lênin bảo vệ, hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác............. 17
Phần III: Bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học ......................... 19
Sự phân chia các thời kỳ trong lịch sử triết học ............................................................ 19
Ý nghĩa .......................................................................................................................... 25
Phần IV: Vận dụng và phát triển triết học Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày
nay ................................................................................................................................. 27
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 32
2
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát
triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà gắn với nó là cuộc đấu tranh
giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình – tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “lôgíc nội tại khách
quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó
đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cộng nhân và
nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó
đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sử phát triển triết học của nhân loại. C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa một cách có
phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học
triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây dựng triết
học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã
hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen
đã thực hiện trong triết học. Vì vậy em đã chọn nghiên cứu đề tài “Sự ra đời của triết
học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học” cho bài tiểu
luận của mình.
Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của Thầy để em có thể
hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy.
3
NỘI DUNG
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày
nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của con người.
Phần I
NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI TRIẾT
HỌC MÁC
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học, là
đỉnh cao của thế giới quan duy vật, là chủ nghĩa duy vật triệt để. Chính nhận định này
mà các nhà lý luận tư sản đã quan niệm sai lầm rằng triết học Mác nói riêng và chủ
nghĩa Mác nói chung ra đời như một biệt phái, như một độc thoại và tự dành cho mình
quyền phát ngôn chân lý cuối cùng .
Trái lại, sự xuất hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử một hiện tượng
hợp quy luật. Nó là kết tinh của tất cả các giá trị cao quí của tư duy, triết học văn hóa,
khoa học của lịch sử nhân loại. Đồng thời cũng dựa trên những tiền đề về kinh tế xã
hội đạt được ở thời kỳ đó. Sự ra đời của triết học Mác là cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học, nó dựa vào những tiền đề cơ bản .
Nhìn chung, có hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và
nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều
kiện sau
1. Tiền đề về kinh tế - xã hội
1.1 Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng công nghiệp
4
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã
hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc
công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng
cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội
càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất
công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành
những cuộc đấu tranh giai cấp.
1.2 Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa
được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở
thành giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản vốn mang
tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của
thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào
năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX,
là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước
Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp
cách mạng. Ở Anh và Pháp, giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị nhưng lại hoảng sợ
trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá
trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội
phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư
sản Pháp năm 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân
5
Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư
bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết
học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh
chóng đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của
họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để C. Mác và Ph. Ăngghen khái
quát xây dựng những quan điểm triết học. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp
về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách
mạng.
2. Tiền đề về lý luận
Tiền đề về kinh tế - xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết cho sự ra đời của
triết học Mác. Song nó chỉ là tiền đề khách quan, nó chỉ đặt ra cho nhu cầu lịch sử và
tạo khả năng cho sự giải quyết nhu cầu đó. Nhưng nhu cầu lịch sử không thể tự nó thực
hiện và khả năng không tự hiện thực hóa và nó cần có sự hoạt động của con người, của
nhân tố chủ thể. Chủ thể ở đây không chỉ là quần chúng nhân dân mà còn là cá nhân lỗi
lạc, có tầm trí tuệ cao, đủ sức nắm lấy và giải quyết những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến
của loài người đặt ra. C.Mác và Ph.Aêng-ghen, như Lênin nhận xét, là những cá nhân
như thế.
Triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung không phải là một trào lưu
biệt phái, nó không tách rời văn minh chung của nhân loại. Nền văn minh đó, trực tiếp
là những trào lưu tư tưởng và lý luận ở Châu Âu thế kỹ XIX: triết học cổ điển Đức (với
các đại biểu Can-tơ, Phích-tơ, Sê-linh, Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc); kinh tế chính trị Anh (đại
biểu A. Xmít, Đ. Ri-các-đô); xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp (đại biểu Xanh Xi-
6
mông, S. Phu-ri-ê) và xã hội chủ nghĩa không tưởng Anh (R. Ôoen) được C. Mác và
Ph. Ăngghen kế thừa và phát triển một cách xuất sắc.
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Một là, triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen
và Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C. Mác và Ph. Ăngghen đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen.
C. Mác cho rằng tính chất thần bí mà biện chứng đã mắc phải ở triết học Hêghen tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và
có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất; chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân
hợp lý của nó sau lớp vỏ thần bí.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những giá trị trong chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc, đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những
hạn chế lịch sử của nó để xây dựng nên lý luận mới của chủ nghĩa duy vật.
Từ những giá trị của phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc, Mác và Ăngghen đã xây dựng lên học thuyết triết học mới, trong đó chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ gọi là chủ
nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ
nghĩa duy vật triết học.
Hai là, việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc
là A. Xơmít và Đ. Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế
mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.
Ba là, cải tạo một cách phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những
đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông và S. Phuriê. C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa
7
những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp (quan điểm về vai trò
của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu...) và khắc phục tính không tưởng
thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật lịch sử.
Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách mạng.
Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ
trong triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị
học Anh.
3. Tiền đề về khoa học tự nhiên
Sự ra đời của triết học Mác còn có tiền đề về khoa học tự nhiên. Khoa học này
đòi hỏi phải phương pháp nghiên cứu từ siêu hình máy móc sang phương pháp biện
chứng, nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như một quá trình vận động, liên hệ
thống nhất.
Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể
thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự
nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và những bất lực của phương pháp tư duy
siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để
phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên vào đầu thế kỹ thứ XIX, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã nói đến ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành triết
học duy vật biện chứng, đó là:
định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng - cho phép vạch ra được mối liên
hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác nhau của thế giới vật chất
học thuyết tế bào - chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật
8
thuyết tiến hóa của Đác-uyn - giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển
phong phú, đa dạng của giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh
Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự
vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới,
vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính
hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ
đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân
loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát
minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph. Ăngghen khái
quát xây dựng phép biện chứng duy vật.
Như vậy, từ những yếu tố trên có thể khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung và triết học Mác nói riêng đã ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì nó
phản ánh đời sống thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân
mà còn vì sự phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại.
9
Phần II
NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Sự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua một quá trình. Quá
trình đó bao gồm các giai đoạn sau
1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph. nĂngghen từ chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
cộng sản
1.1 Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác
Các Mác (5-5-1818 – 14-3-1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức (bố là
luật sư) ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế và chính
trị của nước Đức, chịu nhiều ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp và đạo Kito là tôn
giáo độc tôn.
Những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã
giúp Mác hình thành và phát triển tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng yêu tự do.
Phẩm chất đạo đức - tinh thần cao đẹp đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành
định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng và
quan điểm vô thần. Cũng vì thế, trong tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần
biện chứng cách mạng của nó được Các Mác xem là chân lý. Trong thời gian học ở
khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Béclin (1836 - 1841) ông say mê nghiên cứu triết
học, nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do.
Năm 1837 Các Mác tập trung nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen
trẻ”.
10
Tháng 4-1841, Mác nhận bằng Tiến sĩ triết học. Trong luận án tiến sĩ với đề tài
“Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của
Êpiquya”, tuy Mác vẫn là người theo triết học duy tâm của Hêghen, song ông coi
nhiệm vụ của triết học là phải phục vụ cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con
người, phá bỏ hiện thực lỗi thời theo tinh thần cách mạng của phép biện chứng. "Giống
như Prômêtê - Mác viết trong luận án, - sau khi đã đánh cắp lửa từ trên trời xuống, đã
bắt đầu xây dựng nhà cửa và cư trú trên trái đất, triết học cũng vậy, sau khi bao quát
được toàn bộ thế giới, nó nổi dậy chống lại thế giới các hiện tượng". Luận án cũng cho
thấy tư tưởng vô thần của Mác khi ông đòi hỏi triết học phải phục vụ cuộc sống chứ
quyết không làm tôi tớ cho thần học.
Sau khi nhận bằng tiến sĩ triết học vào tháng 4 - 1841, Mác chuẩn bị vào giảng
dạy triết học ở trường đại học Tổng hợp Bon và dự định xuất bản một tờ tạp chí với tên
gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần”. Nhưng dự đinh đó không thực hiện được vì vua
Phriđrích Vinhem IV thực hiện chính sách phản động và đàn áp những người dân chủ
cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động
chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân chủ;
đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này, trong tư
tưởng của Các Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ
cách mạng và vô thần. Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi Các Mác làm việc ở
báo Sông Ranh, ở đây lúc đầu là cộng tác viên sau trở thành linh hồn của tờ báo và ông
đã làm cho nó trở thành cơ quan ngôn luận của phái dân chủ cách mạng.
Sự chuyển biến bước đầu diễn ra trong thời kỳ Mác làm việc ở báo sông Ranh
(5-1842 đến 4-1843).Thực tiễn đấu tranh trên báo chí cho tự do dân chủ đã làm cho tư
tưởng dân chủ cách mạng ở Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích
của “quần chúng nghèo khổ bất hạnh về chính trị và xã hội”. Lúc này tư tưởng cộng
sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần chúng nghèo khổ bất
11
hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần nhân đạo, ông tập trung phê phán các
chính sách của nhà nước Phổ, nhà nước chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những
lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán đó Các Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà
nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh.
Về thế giới quan triết học, nhìn chung Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm
trong việc xem xét bản chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính quyền nhà nước
đương thời đã cho Mác thấy rằng, cái quan hệ khách quan quyết định hoạt động của
nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã tìm cách
chứng minh bằng triết học, mà là những lợi ích; còn chính quyền nhà nước lại là “cơ
quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích tư nhân”. Như vậy, qua thực tiễn, nguyện
vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế đã giúp Mác hình
thành khuynh hướng duy vật và nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc
này, tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư
biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm (1843), Các Mác đặt cho mình nhiệm vụ
duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết về xã hội và
nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong khi thực hiện phê phán
ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học Phoiơbắc. Song với tinh thần
phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị
nóng hổi của Phoiơbắc. Sự phê phán sâu rộng triết học