Triết học là hình thái ý thức xã hội, là học thuyết vềnhững nguyên tắc chung
của tồn tại và nhận thức, là thái độcủa con người đối với thếgiới, là khoa học về
những quy luật chung nhất của tựnhiên, xã hội và tưduy.
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sửgần 3000 năm. Cuộc
đấu tranh giữa chủnghĩa duy vật và chủnghĩa duy tâm gắn với nó là cuộc đấu tranh
giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương
pháp siêu hình tuy xuyên suốt lịch sửtriết học, làm nên cái “logic nội tại khách
quan” của sựphát triển, song lịch sửdiễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệthống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy
nó đã trởthành thếgiới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân
và nhân loại tiến bộtrong thời đại mới. Triết học Mác đã kếthừa những tinh hoa, từ
đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo thế
giới.
Sựra đời triết học Mác tạo nên sựbiến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sửphát triển triết học nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kếthừa một cách có phê
phán những thành tựu tưduy của nhân loại, sáng tạo nên chủnghĩa duy vật triết học
triệt để, triết học Mác đã khắc phục sựtách rời thếgiới quan và phép biện chứng
trong lịch sửphát triển của triết học. Sựra đời của triết học Mác tạo được bước
ngoặt cách mạng trong lịch sửtriết học, trong học thuyết vềxã hội. Vì vậy em
nghiên cứu vấn đề: “Sựra đời triết học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong
lịch sửphát triển triết học” cho tiểu luận của mình. Với thời gian và phạm vi cho
phép trong quá trình nghiên cứu chắc chắn không tránh sựthiếu sót, rất mong sự
đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn.
21 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10055 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự ra đời triết học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI NÓI ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung
của tồn tại và nhận thức, là thái độ của con người đối với thế giới, là khoa học về
những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm gắn với nó là cuộc đấu tranh
giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương
pháp siêu hình tuy xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách
quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy
nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân
và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ
đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo thế
giới.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sử phát triển triết học nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê
phán những thành tựu tư duy của nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học
triệt để, triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan và phép biện chứng
trong lịch sử phát triển của triết học. Sự ra đời của triết học Mác tạo được bước
ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, trong học thuyết về xã hội. Vì vậy em
nghiên cứu vấn đề: “Sự ra đời triết học Mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học” cho tiểu luận của mình. Với thời gian và phạm vi cho
phép trong quá trình nghiên cứu chắc chắn không tránh sự thiếu sót, rất mong sự
đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn.
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 1
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN I:
NHỮNG TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN TRIẾT HỌC MÁC
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học, là
đỉnh cao của thế giới quan duy vật, là chủ nghĩa duy vật triệt để. Chính nhận định
này mà các nhà lý luận tư sản đã quan niệm sai lầm rằng triết học Mác nói riêng và
chủ nghĩa Mác nói chung ra đời như một biệt phái, như một độc thoại và tự dành
cho mình quyền phát ngôn chân lý cuối cùng .
Trái lại, sự xuất hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử một hiện tượng
hợp quy luật. Nó là kết tinh của tất cả các giá trị cao quí của tư duy, triết học văn
hóa, khoa học của lịch sử nhân loại. Đồng thời cũng dựa trên những tiền đề về kinh
tế xã hội đạt được ở thời kỳ đó. Sự ra đời của triết học Mác là cuộc cách mạng trong
lịch sử triết học, nó dựa vào những tiền đề cơ bản .
1. Tiền đề về kinh tế - xã hội
Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng công nghiệp: Vào những năm 30 của thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa
tư bản bắt đầu đi vào giai đoạn phát triển mới. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản như là
một tất yếu, nó đạt được một số thành tựu và trở thành hệ thống thống trị về mặt
kinh tế ở nhiều nước Châu Âu. Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất làm cho
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh mẽ trên cơ sở vật chất kỹ thuật của chính mình, do đó nó đã
thể hiện rõ tính hơn hẳn so với phương thức sản xuất phong kiến. Nó phát triển
nhanh và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, thể hiện sự đơn giản hóa tạo không gian
thông thoáng và phá vỡ hàng rào của chế độ phong kiến. Tạo ra môi trường cạnh
tranh rất khốc liệt giúp con người phải rèn luyện, cạnh tranh và phát triển.
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 2
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
C.Mác và Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp
chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1. Sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ
rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng bất công xã hội lại tăng thêm, đối kháng xã hội
thêm sâu sắc, những xung đột giữa vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu
tranh giai cấp.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực
lượng chính trị - xã hội độc lập: Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các
nước tư bản Tây Âu trong giai đoạn này còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức, do đó
nhu cầu khách quan đặt ra là phải có một vũ khí lý luận sắc bén phản ánh một cách
khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân. Các học thuyết xã
hội chủ nghĩa không tưởng thời đó của Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen đã không phản
ánh được lợi ích căn bản của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân vì sự
nghiệp giải phóng giai cấp mình và giải phóng quần chúng lao động bị áp bức, bóc
lột.
Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng: Triết học Mác đã xuất hiện đúng
lúc trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và sáng tạo những di sản tư tưởng của triết học
của loài người, biết phân tích đúng thực tiễn kết hợp với năng lực tư duy của một
nhà bác học, Mác đã cùng với Ăngghen xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Triết học Mác ra đời đã phản ánh đúng đắn lịch sử
khách quan phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới,
cũng như nguyện vọng và lợi ích chân chính của nó. Với sự ra đời của triết học Mác,
giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh thần của mình, là một
học thuyết khoa học dẫn dắt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đi từ tự
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.603
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 3
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
phát đến tự giác. Bên cạnh triết học Mác còn có mối quan hệ hữu cơ với phong trào
cách mạng của công nhân, Mác nói: “triết học nhận thấy giai cấp vô sản là vũ khí
vật chất và tinh thần của mình”.
2. Tiền đề về lý luận
Tiền đề về kinh tế - xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết cho sự ra đời của
triết học Mác. Song nó chỉ là tiền đề khách quan, nó chỉ đặt ra cho nhu cầu lịch sử
và tạo khả năng cho sự giải quyết nhu cầu đó. Nhưng nhu cầu lịch sử không thể tự
nó thực hiện và khả năng không tự hiện thực hóa và nó cần có sự hoạt động của con
người, của nhân tố chủ thể. Chủ thể ở đây không chỉ là quần chúng nhân dân mà còn
là cá nhân lỗi lạc, có tầm trí tuệ cao, đủ sức nắm lấy và giải quyết những vấn đề mà
tư tưởng tiên tiến của loài người đặt ra. C.Mác và Ph.Ăngghen, như Lênin nhận xét,
là những cá nhân như thế.
Triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung không phải là một trào
lưu biệt phái, nó không tách rời văn minh chung của nhân loại. Nền văn minh đó,
trực tiếp là những trào lưu tư tưởng và lý luận ở Châu Âu thế kỷ XIX, khi phân tích
nguồn gốc của sự xuất hiện triết học Mác, các nhà tư tưởng luôn đánh giá cao vai trò
của triết học cổ điển Đức, cống hiến của Mác không phải chỉ ở chỗ sáng tạo ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - cơ sở của thế giới quan khoa
học; mà còn ở chỗ sàng lọc và kế thừa có phát triển những di sản tư tưởng của nhân
loại trong đó có triết học cổ điển Đức (với các đại biểu Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh,
Hêghen, Phoiơbắc); kinh tế chính trị Anh (đại biểu A.Xmít, Đ.Ricácđô); xã hội chủ
nghĩa không tưởng Pháp (đại biểu Xanh Ximông, S.Phuriê) và xã hội chủ nghĩa
không tưởng Anh (R.Ôoen) được C.Mác và Ph.Ăngghen được kế thừa và phát triển
một cách xuất sắc.
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 4
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và
Phoiơbắc đã có ảnh hưởng rất quan trọng về mặt lý luận đến sự hình thành thế giới
quan duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen.
Sau này, cả khi đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm triết học Hêghen, các ông vẫn đánh giá
cao tư tưởng biện chứng của nó. Chính cái “hạt nhân hợp lý” đó đã được Mác kế
thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép
biện chứng – phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật của Mác được hình
thành dựa trên cơ sở chọn lọc có phê phán phép biện chứng duy tâm khách quan của
Hêghen – một trong những nhà triết học biện chứng duy tâm khách quan lớn nhất
của lịch sử triết học. Mác cho rằng: Dù triết học của Hêghen mang tính duy tâm thần
bí, nhưng ông là người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có hệ thống các hình
thức vận động chung của phép biện chứng.
Cùng với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, trong chủ nghĩa duy vật biện
chứng của Mác còn có sự kế thừa và phát triển những quan điểm duy vật về tự nhiên
của Phoiơbắc – nhà dân chủ tư sản cấp tiến, đại biểu sau cùng của triết học cổ điển
Đức. Phoiơbắc là người có công bảo vệ và phát triển quan điểm duy vật tự nhiên,
đấu tranh chống tôn giáo. Đặc điểm triết học duy vật của Phoiơbắc là lấy con người
làm xuất phát điểm của triết học, khuyết điểm lớn nhất trong triết học của ông là duy
tâm về mặt xã hội và không nhận thấy được những hạt nhân tích cực và hợp lý trong
phép biện chứng của Hêghen. Bản thân con người mà ông chọn làm trung tâm
nghiên cứu của triết học cũng chỉ là con người sinh học chứ không phải con người
xã hội.
Mặc dù trong triết học của Hêghen và Phoiơbắc còn có những hạn chế nhất
định, nhưng nhờ được Mác kế thừa và phát triển hợp lý mà phép biện chứng duy
tâm khách quan của Hêghen, chủ nghĩa duy vật về tự nhiên của Phoiơbắc đã trở
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 5
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết học Mác. Từ đó Mác
và Ăngghen xây dựng nên triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ.
Một cơ sở nữa không thể thiếu được để tạo ra các quan điểm duy vật về lịch
sử trong triết học Mác và khắc phục tính chất duy tâm siêu hình trong các quan niệm
về xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác là nghiên cứu và cải tạo kinh tế chính trị
học Anh với các đại biểu A.Xmit và Đ.Ricácđô. Chính Mác đã nói rằng, việc nghiên
cứu những vấn đề triết học về xã hội đã khiến ông phải đi vào nghiên cứu những vấn
đề triết học về xã hội đã khiến ông phải đi vào nghiên cứu kinh tế học và nhờ đó mới
có thể đi tới hoàn thành quan niệm duy vật lịch sử, đồng thời xây dựng nên học
thuyết về kinh tế của mình.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh
Ximông và Sáclơ Phurie là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
Đương nhiên, đó là nguồn gốc lý luận trực tiếp của học thuyết Mác về chủ nghĩa xã
hội – chủ nghĩa xã hội khoa học. Song, nếu như triết học Mác nói chung, chủ nghĩa
duy vật lịch sử nói riêng là tiền đề lý luận trực tiếp làm cho chủ nghĩa xã hội phát
triển từ không tưởng thành khoa học, thì điều đó cũng có nghĩa là sự hình thành và
phát triển triết học Mác không tách rời với sự phát triển những quan điểm lý luận về
chủ nghĩa xã hội của Mác.
3.Tiền đề về khoa học tự nhiên
Sự ra đời của triết học Mác còn có tiền đề về khoa học tự nhiên. Khoa học
này đòi hỏi phải phương pháp nghiên cứu từ siêu hình máy móc sang phương pháp
biện chứng, nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như một quá trình vận
động, liên hệ thống nhất.
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 6
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên vào đầu thế kỷ thứ XIX,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành
triết học duy vật biện chứng, đó là: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng,
học thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đắcuyn.
Phát minh thứ nhất định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng được phát
minh vào thời kỳ 1842-1845 bởi nhà vật lý học người Đức R.Mayer. Định luật này
đã chứng minh cho luận điểm: Vận động của vật chất là phổ biến, các dạng vận
động của vật chất đều chuyển hóa lẫn nhau; mọi vật đều không tự sinh ra, không tự
mất đi, mà chúng chỉ chuyển hóa từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác. Phát
minh này cho phép vạch ra được mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động
khác nhau của thế giới vật chất, rõ ràng sự xuất hiện của phát minh này đã cung cấp
cơ sở khoa học để bảo vệ vững chắc cho sự tồn tại của quan điểm duy vật biện
chứng về thế giới.
Phát minh thứ hai học thuyết về tế bào được phát minh vào những năm 30
của thế kỷ XIX. Nội dung học thuyết này khẳng định: Sự sống là sản phẩm phát
triển của bản thân giới tự nhiên; mọi cơ thể dù là động vật hay thực vật đều được
cấu tạo từ những đơn vị mang sự sống rất nhỏ gọi là tế bào; quá trình không ngừng
phân hóa và tăng trưởng của tế bào cũng là quá trình duy trì và phát triển của mỗi cơ
thể sống, làm cho cơ thể ngày càng hoàn thiện…Như vậy học thuyết tế bào góp
phần quan trọng vào việc khẳng định cơ sở khoa học của sự thống nhất về mặt cấu
tạo của các cơ thể động vật và thực vật, đồng thời đã góp phần cho sự tồn tại và phát
triển của sự sống. Phát minh này chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật.
Phát minh thứ ba đó là thuyết tiến hóa của Đắcuyn có vai trò to lớn đối với
quan niệm duy vật của Mác-Ăngghen. Đắcuyn đã chứng minh được rằng các loài
đang tồn tại hiện nay được sinh ra từ các loài khác bằng con đường chọn lọc tự
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 7
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nhiên và chọn lọc nhân tạo. Mác và Ăngghen nhấn mạnh rằng, cống hiến của
Đácuynh đã góp phần xác định cơ sở khoa học của tính biến dị và di truyền giữa các
loài, vạch trần sự xuyên tạc của những quan điểm duy tâm, tôn giáo và thần học
xung quanh học thuyết về sự phát triển của thực vật và động vật, giải thích tính chất
biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của giống loài trong thế giới tự
nhiên hữu sinh. Sự hình thành các khoa học tự nhiên mang tính lý luận như vậy đã
làm cho triết học về tự nhiên trước đây có tham vọng đóng vai trò “khoa học của các
khoa học” như Ph.Ăngghen không còn nữa.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử như một triết học phù hợp với sự phát triển của các khoa học
cụ thể (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), đồng thời trở thành thế giới quan và
phương pháp luận cho các khoa học đó.
Như vậy sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác và triết học của nó không phải là
ngẫu nhiên mà là một hiện tượng hợp qui luật, như một tất yếu lịch sử không những
vì đời sống và thực tiễn, nó do những nguyên nhân kinh tế xã hội và sự phát triển
của tư tưởng nhân loại trước đó. Khi sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học Mác đã góp phần vạch ra những qui luật vận
động chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Nhờ khắc phục được
những thiếu sót cơ bản của triết học duy vật cũ mà triết học Mác đã trang bị cho giai
cấp vô sản và quần chúng lao động công cụ khoa học để nhận thức và cải tạo thế
giới.
Phần II
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 8
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG
TRONG TRIẾT HỌC CỦA MÁC
Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
triết học nhân loại. Toàn bộ hệ thống triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
đã chứng minh một cách bản chất sinh động giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao của
học thuyết Mác. Lênin nói chủ nghĩa Mác là sự phát triển cao nhất của toàn bộ khoa
học lịch sử, khoa học kinh tế và triết học ở Châu Âu .
1. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Mác và Ăngghen đã tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao nhất của phép biện chứng là phép biện
chứng duy vật. Trong triết học Mác xít, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng có
mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai trò hết sức to lớn trong sự phát
triển của khoa học trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, những
trong thời kỳ cổ đại thì chỉ là chủ nghĩa duy vật chất phát ngây thơ, tự phát, còn ở
thời cận đại thì chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc. Nó không thể khắc phục triệt
để chủ nghĩa duy tâm và vạch ra được những nguyên nhân phát triển của tự nhiên và
xã hội, không vạch ra được phép biện chứng của quá trình nhận thức và những con
đường cải tạo thế giới. Tuy nhiên, trong học thuyết duy vật trước Mác cũng chứa
đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định nhưng do hạn chế về trình độ phát triển
khoa học và về lịch sử, nên triết học trước Mác mới có những thiếu sót nói trên.
Chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tính tất yếu kém của chủ nghĩa duy vật tự
phát, siêu hình và đã tiến hành đấu tranh quyết liệt chống lại nó. Phép biện chứng lại
được quan tâm nghiên cứu và được phát triển trong một hệ thống triết học duy tâm,
nhất là triết học Hêghen. Hêghen là người có công lao to lớn trong việc khôi phục và
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 9
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
phát triển phép biện chứng nhưng dưới cái vỏ duy tâm thần bí đó không thể tạo ra
được phép biện chứng khoa học. Triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật.
Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà đưa nó lên một
trình độ cao hơn bằng cách tiếp thu có phê phán những thành quả của triết học cổ
điển Đức, nhất là của hệ thống triết học Hêghen, với thành quả chủ yếu là phép biện
chứng, tức là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Tuy nhiên, phép
biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, vì vậy để sử dụng phép biện
chứng đó Mác, Enghen đã cải tạo nó, đặt nó trên cơ sở duy vật. Trong khi thực hiện
phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học Phoiơbắc. Song
với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn
đề chính trị nóng hổi của Phoiơbắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc
khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn
của triết học Phoiơbắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm
triết học của Mác.
Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, cải tạo
chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và phát triển tiếp chủ nghĩa duy vật, trên cơ sở khái quát
những thành tựu khoa học tự nhiên và thực tiễn xã hội giữa thế kỉ 19, Mác-Enghen
đã sáng tạo phép biện chứng duy vật hay chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vì vậy để
xây dựng triết học duy vật biện chứng Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ,
siêu hình và cả phép biện chứng duy tâm. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi hạn chế
siêu hình và phép biện chứng ra khỏi chủ nghĩa duy tâm. Mác đã tạo ra được sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng Mac xít là phép
biện chứng duy vật.
2. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng trong triết học là mở
rộng chủ nghĩa duy vật sang lĩnh vực lịch sử xã hội loài người, hình thành nên chủ
Lớp cao học Đêm 1-Khóa 19 Trang 10
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nghĩa duy vật lịch sử. V.I.Lênin đánh giá rằng: ”Trong khi nghiên cứu sâu và phát
triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến nhận thức xã hội loài người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học.
Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự
tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị.”2
Chủ nghĩ