Tiểu luận Sự thay đổi về giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam

Câu 1: Thị trường hiệu quả là gì ? Tầm quan trọng của thị trường hiệu quả đối với sự thay đổi về giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam như thế nào ? Khái niệm thị trường hiệu quả: Thị trường hiệu quả (effecient market) là nơi mà tại bất kỳ thời điểm nào, tất cả các thông tin mới đều được những người tham gia thị trường nắm bắt và tức thì được phản ánh vào trong giá cả thị trường. Ví dụ: Tin một công ty dầu lửa phát hiện ra mỏ dầu mới có trữ lượng lớn được công bố lúc 10 giờ sáng ngày hôm nay thì ngay lập tức thông tin đó sẽ được phản ánh vào giá cả khiến cho nó được đẩy lên ở mức thích hợp. Trong một thị trường hiệu quả, cạnh tranh dẫn đến tình trạng giá cả các loại chứng khoán phản ánh tất cả các loại thông tin: cả những thông tin về những sự kiện đã xảy ra và cả những thông tin mà thị trường kì vọng sẽ xảy ra trong tương lai.

pdf13 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1915 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự thay đổi về giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận Sự thay đổi về giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam 2 Lời tựa Tôi xin chân thành cám ơn thầy giáo Valliappan A/L Kasi đã tận tình giúp đỡ và truyền đạt kiến thức để tôi hoàn thiện tiểu luận này. Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo trợ giảng Tiến sĩ. Nguyễn Việt Dũng, đã tận tình chỉ bảo nhiệt tình với những kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm với lĩnh vực tài chính doanh nghiệp để giúp tôi có thể hoàn thành tốt nhất tiểu luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo trong Khoa Quốc tế, trường Đại học Quốc gia Hà nội đã tạo điều kiện tốt cho chúng tôi trong quá trình học tập và thực hiện tiểu luận. Cám ơn tất cả các bạn học cùng lớp EV9 đã nhiệt tình chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm để tôi có thể hoàn thành tốt công việc của mình, cám ơn gia đình đã động viên tôi trong quá trình học tập vừa qua. Mặc dù đã cố gắng hoàn thành tiểu luận với tất cả sự nỗ lực của bản thân, tuy nhiên với thời gian không cho phép, chắc chắn tiểu luận của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong Quý Thầy cô giáo tận tình chỉ bảo. Một lần nữa, xin gửi đến tất cả mọi người lời cảm ơn chân thành nhất. Xin trân trọng cảm ơn. 3 TIỂU LUẬN SỐ 1 Câu 1: Thị trường hiệu quả là gì ? Tầm quan trọng của thị trường hiệu quả đối với sự thay đổi về giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam như thế nào ? Khái niệm thị trường hiệu quả: Thị trường hiệu quả (effecient market) là nơi mà tại bất kỳ thời điểm nào, tất cả các thông tin mới đều được những người tham gia thị trường nắm bắt và tức thì được phản ánh vào trong giá cả thị trường. Ví dụ: Tin một công ty dầu lửa phát hiện ra mỏ dầu mới có trữ lượng lớn được công bố lúc 10 giờ sáng ngày hôm nay thì ngay lập tức thông tin đó sẽ được phản ánh vào giá cả khiến cho nó được đẩy lên ở mức thích hợp. Trong một thị trường hiệu quả, cạnh tranh dẫn đến tình trạng giá cả các loại chứng khoán phản ánh tất cả các loại thông tin: cả những thông tin về những sự kiện đã xảy ra và cả những thông tin mà thị trường kì vọng sẽ xảy ra trong tương lai. Có 3 loại thị trường hiệu quả: 1.Thị trường hiệu quả dạng yếu ( weak form): là dạng thị trường khi mà giá cả của bất kỳ loại tài sản tài chính nào trên thị trường đó phản ánh một cách tức thì toàn bộ thông tin thị trường về nó. VD: bao gồm các thông tin chuyển dịch liên tục của giá, tỷ suất thu nhập, khối lượng giao dịch và các thông tin chung khác như: mua bán lô lẻ, giao dịch lô lớn và các thương vụ của các chuyên gia ngoại hối hay của các nhóm độc quyền khác. 2. Thị trường hiệu quả dạng trung bình ( semi – strong form): Là dạng thị trường khi mà chỉ khi giá cả của bất kỳ tài sản tài chính nào được phản ánh những thông tin đại chúng về nó công bố thông tin rộng rãi trong công chúng. Thông tin công khai bao gồm tất cả các thông tin phi thị trường như: thông báo về thu nhập và cổ tức, tỷ lệ P/E, tỷ lệ D/P, tỷ lệ thư giá/ thị giá, chia cổ phần, các thông tin về kinh tế cũng như chính trị. 3. Thị trường hiệu quả dạng mạnh ( strong form): Là dạng thị trường khi mà chỉ khi giá cả của bất kỳ loại tài sản tài chính nào trên thị trường tài chính được phản ánh đầy đủ và tức 4 thì tất cả các thông tin về nó, kể cả các thông tin nội bộ.Nghĩa là sẽ không có một nhóm đầu tư nào độc quyền tiếp cận được các thông tin liên quan đến việc định giá. Do đó, sẽ không ai thu được lợi nhuận vượt mức. Tham khảo qua đồ thị: Tầm quan trọng của thị trường hiệu quả đối với sự thay đổi về giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam: Tại Việt Nam, khi thị trường trở nên kém hiệu quả, quy luật cung cầu trên thị trường do NĐT cạnh tranh lẫn nhau, khai thác các hiện tượng đã được nhận biết để kiếm lợi nhuận. Và chính điều này đưa thị giá trở về trạng thái cân bằng, đồng thời xóa bỏ hiện tượng đó. Thị trường khi đó bắt đầu phát sinh những hiện tượng mới và trở thành thị trường hiệu quả ở hình thái mạnh bởi những hiện tượng, quy luật mới chưa được NĐT nhận biết. Đối với nhiều NĐT chuyên nghiệp thì TTCK không bao giờ có quá khứ, nghĩa là những hiện tượng không bao giờ lặp lại giống nhau, vì thế khó mà dự đoán được. VD: Với chỉ thị 03 của Ngân hàng Nhà nước về khống chế tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán làm cho nhà đầu tư, cộng đồng tài chính và thị trường phản ứng. Với học thuyết thị trường hiệu quả thì những thông tin này đã ảnh hưởng đến tâm lý hành vi của các chủ thể tham gia thị trường, đến quy luật thị trường, đồng thời phản ánh vào giá chứng khoán. Những nhà đầu tư chuyên nghiệp vận dụng học thuyết thị trường hiệu quả sẽ xác định được chiến lược đầu tư phù hợp. Tóm lại: Với học thuyết thị trường hiệu quả đều có ưu điểm và nhược điểm. Nhà đầu tư phải lựa chọn, sử dụng phương pháp phù hợp với bản thân và ở từng thời điểm của thị Weak form Semi – strong form Strong form 5 trường để đầu tư thành công, ngoài việc có phương pháp phân tích tốt, nhà đầu tư còn phải biết sử dụng chúng sao mang lại kết quả. Biết phối hợp tất cả các phương pháp phân tích đầu tư lại với nhau sẽ chính là phương pháp mang lại hiệu quả cao nhất. Câu 2: Xác định chức năng chính của thị trường chứng khoán phái sinh trong nền kinh tế và thảo luận về vai trò của chứng khoán phái sinh trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Khái niệm chứng khoán phái sinh (derivatives): là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm mục tiêu như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị của cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi thì giá của các công cụ phái sinh sẽ duy trì ở mức ban đầu. Thị trường phái sinh là nơi giao dịch các công cụ phái sinh, tăng cường tính thanh khoản và tạo lập cơ chế định giá. Công cụ phái sinh là tài sản tài chính có giá trị được xác định bởi giá trị của các tài sản cơ sở. Công cụ phái sinh có giá trị đối với các nhà quản lý vì chúng giúp quản trị nhiều loại rủi ro khác nhau mà một tổ chức, công ty phải đối mặt. Nhà quản lý tham gia thị trường phái sinh để phòng vệ (quản lý) các rủi ro của họ liên quan đến tài sản cơ sở. Có rất nhiều dạng rủi ro liên quan tới công cụ phái sinh như: - rủi ro về giá (khi thị giá thay đổi) - rủi ro thanh toán (khi tài sản được giao trước khi nhận được thanh toán) - rủi ro hoạt động (lỗi kiểm soát nội bộ trong hoạt động kinh doanh) - rủi ro pháp luật (nếu khách hàng kiện để phục hồi thiệt hại của họ) và rủi ro pháp quy (khi quy định của chính phủ thay đổi hoặc bị vi phạm). Như vậy, một trong những chức năng cơ bản của công cụ phái sinh là phòng vệ rủi ro. Tuy nhiên nếu quá lạm dụng khía cạnh đầu cơ cộng với thiếu hiểu biết trong sử dụng chúng sẽ dẫn đến nguy cơ sử dụng sai và hậu quả là rất lớn. Vai trò của chứng khoán phái sinh trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây: 6 Xuất phát từ nhu cầu vay tiền để mua nhà của người dân Mỹ: Các ngân hàng và các tổ chức cho vay ào ạt, tạo ra những hợp đồng cho vay không đạt tiêu chuẩn và khuyến khích cả những người không đủ khả năng tài chính cũng đi vay tiền để mua nhà. Ngoài ra, các tổ chức cho vay còn “sáng tạo” ra những hợp đồng bắt đầu với lãi suất rất thấp trong những năm đầu và sau đó điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường (đó là một dạng của chứng khoán phái sinh, không nhìn thấy rủi ro tiềm ẩn). Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay không đòi được nợ. Nguy hại hơn nữa là các tổ chức tài chính đã gom góp các hợp đồng cho vay bất động sản này làm tài sản bảo đảm, để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế. Các loại trái phiếu này được mệnh danh là “Mortgage backed securities – MBS”, một sản phẩm tài chính phái sinh được bảo đảm bằng những hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp. Các tổ chức giám định hệ số tín nhiệm (Credit rating agencies) đánh giá cao loại sản phẩm phái sinh này. Và nó được các ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, trên toàn thế giới mua mà không biết rằng các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm là không đủ tiêu chuẩn. Khi thị trường bất động sản hạ nhiệt, người đi vay không có khả năng trả nợ lại cũng rất khó bán bất động sản và kể cả bán được thì giá trị của bất động sản cũng đã giảm tới mức không đủ thanh toán các khoản vay nợ. Hậu quả là một số hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các trái phiếu MBS là nợ khó đòi, các trái phiếu MBS mất giá trên thị trường thứ cấp, thậm chí không còn mua bán được trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những trái phiếu này bị lỗ nặng và mất cả khả năng thanh toán. Trầm trọng hơn nữa là những “hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi” (Credit Default Swap – CDS”. Các hợp đồng này do các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra, theo đó bên mua CDS được bên bán bảo đảm sẽ hoàn trả đầy đủ số nợ cho vay nếu bên vay không trả được nợ. Tóm lại: Chứng khoán phái sinh gây ra thua lỗ lớn do việc sử dụng các công cụ đòn bẩy hay vay mượn; rủi ro do đối tác không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng (đặc biệt là trong hợp đồng swaps); 7 Tuy nhiên: Chứng khoán phái sinh cũng thúc đẩy việc mua bán rủi ro, vì thế tạo ra một tác động tích cực trong nền kinh tế. Câu 3: Thảo luận về điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống ngân hàng và đưa ra những khuyến nghị về các giải pháp. Sau quá trình thực hiện chính sách Đổi mới của Đảng năm 1986 và đặc biệt sau khi Việt Nam là thành viên WTO năm 2006, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, vẫn còn nhiều khó khăn thách thức mà Việt Nam phải vượt qua để có thể sánh tầm với thế giới. Đối với hệ thống ngân hàng của nước ta, mặc dù trong những năm qua đã có nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới, đã trưởng thành và lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, nhưng so với thế giới, với đòi hỏi của thời đại và của sự phát triển kinh tế đất nước thì vẫn còn nhỏ bé, khiêm tốn và bất cập. Vài nét tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời gian qua Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc. Tham khảo đồ thị: Tốc độ tăng dư nợ tín dụng qua các năm ( Báo cáo thông tin NHNN năm 2006) .Điểm mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam: 8 Thứ nhất. Hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. Tạo công ăn việc làm cho xã hội (trong 5 năm 2001-2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói giảm nghèo (tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích (chi lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế… Thứ hai. Hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả. Thứ ba. Chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư. Thứ tư. Hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, mặc dù có các chính sách về giải tỏa điều tiết (de-regulation), hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nó được thể 9 hiện ở nhiều khía cạnh, VD như chỉ có một tỷ lệ nhỏ người dân Việt Nam sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các dịch vụ quản lý tài sản, ngân hàng điện tử và thẻ tín dụng đều còn rất ít, tỷ lệ tiền và vàng nhàn rỗi nằm ngoài ngân hàng ước tính 10 tỷ đô la Mỹ, điều này cho thấy rõ ràng ngành ngân hàng còn nhiều vấn đề cần phải được khắc phục để hội nhập tốt hơn, có khả năng cạnh tranh cao hơn trong môi trường quốc tế. .Điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam, dặc biệ những hạn chế khi nền kinh tế dùng tiền mặt: Thứ nhất: Do hạ tầng cơ sở và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán còn nghèo nàn và kém hiệu quả. Có 2.154 ATM số lượng phân bổ chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Với dân số nước ta hơn 80 triệu dân thì bình quân 45.000 dân có 1 ATM. Lượng ATM như vậy quá thấp nếu so với các quốc gia láng giềng (Trung Quốc: 19.000 dân/ATM, Singapore: 2.638 dân/ATM). Hơn nữa, các máy ATM lại chỉ có khả năng phục vụ cho một nhóm nhỏ ngân hàng, chứ không có khả năng sử dụng chung cho nhiều ngân hàng như thực tế ở nhiều nước hiện nay, làm cho mạng lưới máy rút tiền tự động càng hạn chế phạm vi phục vụ. Với các thiết bị tại điểm bán (POS) cũng chung tình trạng như vậy. Luôn có tình trạng một đơn vị chấp nhận thẻ cùng tồn tại nhiều thiết bị POS của các ngân hàng khác nhau để phục vụ cho các giao dịch bằng thẻ. Điều này thu hẹp đáng kể phạm vi sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt so với nhiều quốc gia trong khu vực hiện nay, ngay cả khi mật độ thiết bị tương đương như ở các nước đó; Thứ hai: Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chưa phong phú. Khả năng đáp ứng nhu cầu của nhiều loại đối tượng sử dụng còn hạn chế. Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt chưa đạt được tính tiện ích và phạm vi thanh toán để có thể thay thế cho tiền mặt. Phương thức giao dịch chủ yếu tiếp xúc trực tiếp và mặt đối mặt. Để được nhận một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các chủ thể tham gia thường phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng. Phương thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng công 10 nghệ thông tin hiện đại như giao dịch qua internet, qua mobile, homebanking... chưa phát triển hoặc mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp; Thứ ba: Tính cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ở mức thô sơ và phát triển dưới mức tiềm năng. Cạnh tranh bằng thương hiệu, chất lượng dịch vụ chưa phổ biến. Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra sản phẩm mới hoặc tạo ra giá trị gia tăng trên sản phẩm cùng loại trên thị trường, lại chỉ tập trung vào yếu tố giá cả nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh. Điều này không chỉ làm tổn hại tới chính lợi nhuận của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trong hoạt động dịch vụ thanh toán, mà còn tổn hại tới sự gắn kết giữa chính bản thân ngân hàng và khách hàng, khi mà khách hàng không nhận thấy sự khác biệt giữa các sản phẩm của những ngân hàng khác nhau, vì vậy mà họ dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch vụ mang thương hiệu này để đến với một sản phẩm có thương hiệu khác; Thứ tư: Phí dịch vụ thanh toán còn khá cao và khó chấp nhận đối với những giao dịch thanh toán mức trung bình, đặc biệt đối với các giao dịch liên ngân hàng và liên tỉnh. Ngoài ra, một số phương tiện thanh toán khi sử dụng khách hàng còn phải trả thêm phụ phí so với việc sử dụng tiền mặt; Thứ năm: Yếu kém về công nghệ và trình độ nhân lực - Hệ thống thanh toán cốt lõi là hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, mặc dù được cải thiện rất nhiều sau khi hoàn tất giai đoạn I của Dự án hiện đại hệ thống thanh toán, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu gia tăng về hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng. Theo thiết kế ban đầu, hệ thống thanh toán liên ngân hàng có khả năng xử lý 4.500 giao dịch/ngày. Nhưng từ khi đi vào hoạt động đến này, hệ thống thường xuyên lâm vào tình trạng quá tải với số lượng giao dịch bình quân lên tới 10.000 giao dịch/ngày; Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, tác phong phục vụ và đạo đức nghề nghiệp. Giải pháp và khuyến nghị: 11 Thứ nhất: Cần áp dụng một số biện pháp đồng bộ để việc lắp đặt và sử dụng POS (máy quẹt thẻ thanh toán) thật sự đi vào cuộc sống, trở nên hấp dẫn và có lợi đối với cả người mua hàng và người bán hang. Ttrên cơ sở đó mở rộng phạm vi và đối tượng sử dụng POS. Thẻ ngân hàng không chỉ đơn thuần là một phương tiện chủ yếu để rút tiền mặt tại quầy giao dịch của ngân hàng và các máy ATM mà còn nhiều tiện ích thanh toán khác nhau như mua hàng hóa và dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ, thanh toán đối với các khoản chi định kỳ (tiền điện, nước, in-tơ-nét, điện thoại, truyền hình...) hoặc thanh toán các dịch vụ công cộng như phí cầu đường, đi ta- xi, mua xăng, dầu, mua vé xe buýt... Ngân hàng, doanh nghiệp cần nỗ lực nghiên cứu và đầu tư chương trình phát triển dịch vụ thanh toán bằng thẻ nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân. Thứ hai: Đối với các cơ quan, đơn vị phải thực hiện việc trả lương, trả bảo hiểm cho công nhân viên và các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội qua tài khoản. Đa dạng hóa, hiện đại hóa hình thức không dùng tiền mặt, như dùng thẻ thanh toán (thẻ cá nhân, thẻ thương mại,...), thanh toán qua mobile, internet... Phát triển và bảo đảm tính thuận tiện của hạ tầng thanh toán, trong đó cần quan tâm hơn việc phát triển mạng lưới chấp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống thanh toán gồm các máy ATM, đặc biệt là các điểm chấp nhận thanh toán (POS) không nên chỉ tập trung ở các khách sạn, nhà hàng, siêu thị lớn như hiện nay. Thứ ba: Để thực hiện vai trò quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, trong đó có tổ chức thanh toán, xây dựng khung pháp lý về thanh toán bằng tiền mặt và phí tiền mặt cần đảm bảo lợi ích của nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước và nhân dân, là cơ sở để mọi thành viên trong xã hội tuân thủ. Mở rộng thanh toán trong nền kinh tế bằng công nghệ nên chỉ coi là giải pháp hỗ trợ để thúc đẩy nhanh trong giao dịch thanh toán chứ không thể coi là “phao cứu sinh” cho tình trạng thanh toán bằng tiền mặt hiện nay. 12 Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, trong lĩnh vực thanh toán qua ngân hàng có nhiều luật khác nhau như Luật Thanh toán bằng tiền mặt, Luật Séc, Luật Hối phiếu, Luật Phòng chống rửa tiền… đều được xây dựng đồng bộ. Thứ tư: Xây dựng hạn mức thanh toán bằng tiền mặt: Các quy định về hạn mức thanh toán bằng tiền mặt dù là các khoản chi thuộc NSNN, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân doanh hoặc các khoản thanh toán khác nên thống nhất một mức chung. Giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thanh toán bằng tiền mặt: Đối với kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về sử dụng tiền mặt đối với các tổ chức hưởng lương NSNN đã có Kho bạc Nhà nước quản lý nhưng đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân doanh là một công việc hết sức khó kh
Luận văn liên quan