Điều gì giải thích cho những thay đổi về mặt kĩ thuật và xã hội đáng kể được quan sát
ở nhiều nơi trên thế giới trong suốt thế kỉ qua? Câu trả lời cho vấn đề này là khác
nhau, phụ thuộc vào mức độ giả định rằng cuộc sống xã hội là sản phẩm của chủ
nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể. Những người theo chủ nghĩa cá nhân nhìn nhận
sự thay đổi về xã hội và kinh tế như là sản phẩm của trung gian cá nhân, nơi mà
những cá nhân có mục đích và định hướng mục tiêu thực hiện những mong muốn tự
do của mình nhằm xây dựng những sắp xếp xã hội làm thỏa mãn sở thích và giá trị
của bản thân. Những người theo chủ nghĩa tập thể thì lại có cái nhìn vĩ mô và có cấu
trúc hơn. Trong khi không cần phải phủ nhận tính đại diện của cá nhân, họ nhìn nhận
hành động con người thì được quyết định phần lớn bởi tập thể. Những người theo
chủ nghĩa tập thể là những cấu trúc xã hội được xây dựng bởi con người nhằm cung
cấp sự ổn định và ý nghĩa đối với cuộc sống. Đó chính là “quy luật của trò chơi”
(North, 1990) thúc đẩy và điều khiển hành vi con người.
Áp lực và sự ảnh hưởng qua lại giữa hành vi tối đa hóa lợi ích của cá nhân với các
ảnh hưởng mang tính quyết định của tập thể - chẳng hạn, giữa hành động và cấu trúc
– là những chủ đề bất biến trong các thuyết về xã hội và kinh tế. Theo trường phải
kinh tế học, chủ nghĩa tập thể nổi lên vào cuối thế kỉ thứ 19 đáp lại những giả định
của chủ nghĩa cá nhân mang tính phương pháp luận của kinh tế học cổ điển đã nhìn
nhận con người như là những thực thể có lí trí, có xu hướng tối đa hóa lợi ích và
mang ý kiến cá nhân (Dorfman, 1963). Một vài người trong số những nhà kinh tế học
theo quan điểm tập thể “lỗi thời” – Veblen, Mitchell, Ayres – ban đầu hứng thú với
sự nổi lên và phổ biến của tập quán và thói quen “hiển nhiên”, trong khi những người
khác chẳng hạn như Commons lại tập trung vào những chuyển biến xã hội (chẳng
hạn như tổ chức công đoàn lao động và sự biến mất của chủ nghĩa độc quyền) và
xem xét cách thức mà những quy định làm việc của tập thể được thiết lập nhằm chỉ
3
rõ những nghi hoặc và bất công giữa các đảng và tầng lớp với quyền lực không tương
xứng và lợi ích khác nhau.
Trong phần tư cuối cùng của thế kỉ thứ 20, một trường phái của chủ nghĩa cá nhân
nổi lên trong các nhà xã hội học về tổ chức nhằm xác định các vấn đề về cách thức và
nguyên nhân các tổ chức tiếp nhận các sự sắp xếp về mặt thể chế tương tự nhau.
Powell và DiMaggio (1991) cho rằng chủ nghĩa cá nhân mới mẻ này được xây dựng
dựa trên nền tảng của “cuộc cách mạng về nhận thức” trong xã hội học, phương pháp
và phong tục học (Garfinkel, 1967) và lí thuyết xây dựng xã hội (Berger và
Luckmann, 1967). Các tác giả nhìn nhận sự thể chế hóa (tập thể hóa) như là một tiến
trình định hình tập thể mà xem xét các quy định, giá trị và mâu thuẫn như là thứ yếu
và ít quan trọng hơn tiến trình nhận thức. Những người theo trường phải tập thể mới
nhìn nhận sự xây dựng xã hội của chữ viết, chuẩn mực và phân tầng như là “những
thứ mà thể chế được hình thành” (Powell và DiMaggio, 1991, p. 15). Một vài người
cũng tiếp nhận phương pháp mới mang tính phổ biến mà phương pháp này lại tách
khỏi những hành động có tính mục đích và khuôn khổ của những nhóm lợi ích khác
nhau trong những thể chế đang thay đổi. Như chúng ta đã thấy, một vài học giả theo
trường phải tập thể mới bắt đầu nhìn nhận vấn đề này bằng việc xem xét mối quan hệ
qua lại giữa thuyết tiền định về cấu trúc và đại diện cá nhân.
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự thay đổi về mặt xã hội, kĩ thuật và thể chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Sự thay đổi về mặt xã hội, kĩ
thuật và thể chế
1
Việc xem lại và tổng hợp tư liệu
Điều gì giải thích cho những thay đổi về mặt kĩ thuật và xã hội đáng kể được quan sát
ở nhiều nơi trên thế giới trong suốt thế kỉ qua? Câu trả lời cho vấn đề này là khác
nhau, phụ thuộc vào mức độ giả định rằng cuộc sống xã hội là sản phẩm của chủ
nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể. Những người theo chủ nghĩa cá nhân nhìn nhận
sự thay đổi về xã hội và kinh tế như là sản phẩm của trung gian cá nhân, nơi mà
những cá nhân có mục đích và định hướng mục tiêu thực hiện những mong muốn tự
do của mình nhằm xây dựng những sắp xếp xã hội làm thỏa mãn sở thích và giá trị
của bản thân. Những người theo chủ nghĩa tập thể thì lại có cái nhìn vĩ mô và có cấu
trúc hơn. Trong khi không cần phải phủ nhận tính đại diện của cá nhân, họ nhìn nhận
hành động con người thì được quyết định phần lớn bởi tập thể. Những người theo
chủ nghĩa tập thể là những cấu trúc xã hội được xây dựng bởi con người nhằm cung
cấp sự ổn định và ý nghĩa đối với cuộc sống. Đó chính là “quy luật của trò chơi”
(North, 1990) thúc đẩy và điều khiển hành vi con người.
Áp lực và sự ảnh hưởng qua lại giữa hành vi tối đa hóa lợi ích của cá nhân với các
ảnh hưởng mang tính quyết định của tập thể - chẳng hạn, giữa hành động và cấu trúc
– là những chủ đề bất biến trong các thuyết về xã hội và kinh tế. Theo trường phải
kinh tế học, chủ nghĩa tập thể nổi lên vào cuối thế kỉ thứ 19 đáp lại những giả định
của chủ nghĩa cá nhân mang tính phương pháp luận của kinh tế học cổ điển đã nhìn
nhận con người như là những thực thể có lí trí, có xu hướng tối đa hóa lợi ích và
mang ý kiến cá nhân (Dorfman, 1963). Một vài người trong số những nhà kinh tế học
theo quan điểm tập thể “lỗi thời” – Veblen, Mitchell, Ayres – ban đầu hứng thú với
sự nổi lên và phổ biến của tập quán và thói quen “hiển nhiên”, trong khi những người
khác chẳng hạn như Commons lại tập trung vào những chuyển biến xã hội (chẳng
hạn như tổ chức công đoàn lao động và sự biến mất của chủ nghĩa độc quyền) và
xem xét cách thức mà những quy định làm việc của tập thể được thiết lập nhằm chỉ
2
rõ những nghi hoặc và bất công giữa các đảng và tầng lớp với quyền lực không tương
xứng và lợi ích khác nhau.
Trong phần tư cuối cùng của thế kỉ thứ 20, một trường phái của chủ nghĩa cá nhân
nổi lên trong các nhà xã hội học về tổ chức nhằm xác định các vấn đề về cách thức và
nguyên nhân các tổ chức tiếp nhận các sự sắp xếp về mặt thể chế tương tự nhau.
Powell và DiMaggio (1991) cho rằng chủ nghĩa cá nhân mới mẻ này được xây dựng
dựa trên nền tảng của “cuộc cách mạng về nhận thức” trong xã hội học, phương pháp
và phong tục học (Garfinkel, 1967) và lí thuyết xây dựng xã hội (Berger và
Luckmann, 1967). Các tác giả nhìn nhận sự thể chế hóa (tập thể hóa) như là một tiến
trình định hình tập thể mà xem xét các quy định, giá trị và mâu thuẫn như là thứ yếu
và ít quan trọng hơn tiến trình nhận thức. Những người theo trường phải tập thể mới
nhìn nhận sự xây dựng xã hội của chữ viết, chuẩn mực và phân tầng như là “những
thứ mà thể chế được hình thành” (Powell và DiMaggio, 1991, p. 15). Một vài người
cũng tiếp nhận phương pháp mới mang tính phổ biến mà phương pháp này lại tách
khỏi những hành động có tính mục đích và khuôn khổ của những nhóm lợi ích khác
nhau trong những thể chế đang thay đổi. Như chúng ta đã thấy, một vài học giả theo
trường phải tập thể mới bắt đầu nhìn nhận vấn đề này bằng việc xem xét mối quan hệ
qua lại giữa thuyết tiền định về cấu trúc và đại diện cá nhân.
Các học giả ở cả 2 khía cạnh đều nghiên cứu sự thay đổi về thể chế. Các học giả về
chuyển biến xnã hội tập trung vào những thay đổi về thể chế xảy ra thông qua các
cam đoan, hành động chính trị và các chiến dịch động viên cơ sở nhằm chỉ rõ chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chiến tranh, vũ khí nguyên tử, vấn đề giới tính, sự tàn phá
về môi trường và những vấn đề xã hội khác. Các học giả về công nghệ thì tập trung
vào sự ảnh hưởng qua lại của thay đổi về kĩ thuật, xã hội và thể chế trong các nghiên
cứu của mình về những cải tiến công nghê, khởi sự và sự nổi lên của ngành công
nghiệp. Các học giả ở cả 2 trường phái đều tập trung vào những tiến trình của hành
động tập thể, cũng như những hành động tìm kiếm lợi ích mà những người thực hiện
chúng nhằm ảnh hưởng lên các tiến trình trên.
3
Gần đây các học giả đã quan sát những điểm giống nhau đáng kể trong các tài liệu về
sự thay đổi về xã hội, kĩ thuật và thể chế. Họ đã vẽ ra một sơ đồ khái quát hơn và hệ
thống hơn về nền tảng chung được chia sẻ bởi những lĩnh vực này. Bằng việc xem lại
tài liệu, chương này sẽ cố gắng cung cấp một sơ đồ như thế. Chúng tôi thảo luận về
những công trình mang tính nhận thức và thực nghiệm lớn từ trường phái cũ của kinh
tế học thể chế, trường phải mới của lí thuyết thể chế được tìm thấy trong thuyết tổ
chức và xã hội học, công trình về cải tiến công nghệ và sự nổi lên của ngành công
nghiệp trong tài liệu quản trị, và tài liệu về những chuyển biến xã hội được công bố
bởi những nhà xã hội học và các nhà khoa học về mặt chính trị. Chúng tôi tập trung
vào việc xem xét những tương tác năng động giữa các thể chế, cải tiến công nghệ và
sự chuyển biến xã hội. Chúng tôi nhận diện những điểm giống và khác trong các mặt
này và chỉ ra một vài đóng góp thêm vào mà mỗi khía cạnh mang lại để hiểu hơn về
sự thay đổi thể chế.
Chúng tôi nhấn mạnh vào sự thay đổi về mặt thể chế hơn là bản thân thuyết thể chế.
Chúng tôi xem việc nghiên cứu thay đổi về thể chế là cực kì quan trọng vì vài nguyên
nhân. Thứ nhất, những thể chế trở nên quan trọng khi những vấn đề thiết yếu đang bị
đe dọa. Khi đọc Meyer và Rowan (1977), chúng ta có thể kết luận nhầm rằng những
thể chế (tổ chức) là những chuyện hoang đường mang tính biểu tượng không nhằm
phục vụ cho một mục đích hữu ích nào hơn là cung cấp một sự ngụy trang khiến cho
tổ chức trở nên xác thực bởi vì những hoạt động của nó là thỏa mãn những kì vọng
của xã hội. Ngược lại, Stinchcombe (1997) cho rằng tính chính thức và những nghi lễ
của thể chế là tăng dần cùng với tầm quan trọng cơ bản của vấn đề hay quyết định
được đưa ra, bởi vì có nhiều điều được thể chế hóa là vấn đề mà chúng quan tâm.
Nói cách khác, khi hệ thống giá trị thông báo thứ hạng của thể chế như là một thứ gì
đó được ưu tiên ao, thì những người gìn giữ thể chế sẽ có thể chính thức hóa sự phù
hợp với thể chế vào trong nghi lễ được thiết kế để theo dõi, thúc đẩy và ban hành giá
trị của thứ đó. Quyền ưu tiên càng cao thì sự chính thức hóa và nghi lễ càng cao. Một
điều càng mang tính nghi lễ cao trong một tổ chức, thì chúng lại càng ít mang tính
4
đơn thuần là một nghi lễ bởi nó càng mang tính quan trọng một cách vững
chắc…chẳng hạn trong luật pháp chứng minh: sự công bằng càng phụ thuộc vào một
lượng bằng chứng bao nhiêu thì luật pháp bằng chứng mà ở đó có sự giới thiệu về
bằng chứng đó càng mang tính chính thức bấy nhiêu.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai để nghiên cứu về sự thay đổi thể chế là nó cung cấp
một cách thức khác đáng tin cậy để hiểu những tiến trình thay đổi trong nền kinh tế
mới nổi mà những thuyết truyền thống về tổ chức là thiếu trang bị để lí giải. Davis và
McAdam (2000) cho rằng những tiến trình sản xuất “không biên giới” ngày càng
tăng, tính ưu thế của những tiêu chuẩn đánh giá dựa trên thị trường tài hính và những
tiến trình xã hội và chính trị định hình cấu trúc và cải tiến của những tổ chức đang
làm suy yếu dần tính hữu ích mang tính biện minh của thuyết tổ chức chẳng hạn sự
phụ thuộc vào tài nguyên và sinh thái học dân số. Các lí thuyết về sự thay đổi thể chế
và chuyển biến xã hội có thể cung cấp sự giải thích phù hợp hơn với hành động tập
thể mang tính cạnh tranh và hợp tác giữa các mạng lưới tổ chức và những tác nhân
thuộc thể chế khác trong nền kinh tế hậu công nghiệp. Tuy nhiên, để nhận ra tiềm
năng này, quan điểm ổn định của lí thuyết tân thể chế với tư cách là những lực lượng
có cấu trúc nhất quán và liên tục cần phải được xem lại và phát triển. Việc tập trung
vào sự thay đổi về thể chế tương đối bị xao lãng trong các tài liệu thể chế gần đây.
Phần tiếp theo của bài giới thiệu này xác định những khái niệm cơ bản và cung cấp
một khuôn khổ cho việc phân tích sự thay đổi về thể chế. Chúng tôi xác định 4 quan
niệm khác biệt về sự thay đổi thể chế, gồm thiết kế tổ chức, sự thích ứng về mặt tổ
chức, sự phổ biến về mặt tổ chức và hành động tập thể. Phần 2 của chương xem lại
các công trình đi kèm với mỗi quan điểm. Chúng tôi bao quát cả những bài lí thuyết
sâu xa cũng như các nghiên cứu thực nghiệm. Phần kết luận của chương thảo luận về
những chủ đề lớn trong tài liệu về sự thay đổi thể chế và sự tổng hợp của các quan
điểm.
Các định nghĩa
5
North (1990, p. 2) định nghĩa các thể chế như là “quy định của trò chơi trong một xã
hội hoặc một cách chính thức hơn….đó là những quy định được thiết lập bởi con
người nhằm định hình sự tương tác của con người.” Chúng được xây dựng bởi xã hội
nhằm khiến cho cuộc sống ổn định và ý nghĩa và chúng cũng quy định và thúc đẩy
hành động. Scott (2001) mô tả những thể chế bao gồm những thành tố mang tính văn
hóa - nhận thức, chuẩn mực và quy định hay chính là những “trụ cột”. Mặc dù Scott
nhấn mạnh khía cạnh văn hóa - nhận thức của các thể chế, ông nhìn nhận “thể chế”
như là một khái niệm đa khía cạnh. Đó chính là những trụ cột nhận thức, chuẩn mực
và quy định đại diện cho 3 khía cạnh khác nhau của một thể chế đơn lẻ. Nét nổi bật
tương ứng của 3 khía cạnh này là khác biệt với những vấn đề được xác định. Chẳng
hạn, vì những người theo trường phái thể chế cũ (chẳng hạn như Commons,
1934/1961; 1950) chỉ ra những vấn đề về thiết kế các quy tắc trong thể chế có thể thi
hành được đối với việc thiết lập những nghi hoặc và bất công giữa các đảng đối lập,
chúng tập trung vào khía cạnh quy định của các thể chế.
Những người theo trường phái tân thể chế tập trung vào khía cạnh nhận thức – văn
hóa phần lớn là vì nó thích hợp với vấn đề nghiên cứu của họ về cách thức mà những
thể chế tái sản xuất và mở rộng. Họ hầu như quan tâm đến việc những thể chế trở
thành những khuôn khổ về tinh thần hiển nhiên giúp cho việc xử lí thông tin và ra
quyết định dễ hơn và thúc đẩy con người làm cho thế giới ý nghĩa hơn. Họ nhìn nhận
những thể chế, mỗi khi được thành lập, như là những lực lượng hùng mạnh định hình
hành vi của cá nhân và tổ chức. Họ thiết lập nên cách thức mà thế giới của con người
phải trở thành, nên trở thành và thậm chí qua điểm nhận thức về việc thế giới là gì.
Những lí thuyết gia theo trường phái tân thể chế chẳng hạn như Tolbert và Zucker
(1996) tập trung vào việc thể chế hóa, đó là tiến trình mà những thể chế được phổ
biến và chính thức hóa – đó là, tiến trình mà những thể chế trở thành hiển nhiên và
được trải nghiệm bởi những con người thuộc thể chế đó như là thực tế có mục đích
hơn là được xây dựng về mặt xã hội.
6
Theo Leonid Hurwicz (1993), chúng tôi phân biệt những người trong thể chế (hay
những thực thể) với những sự sắp xếp về thể chế, với thuật ngữ thể chế là đề cập đến
sự sắp xếp về thể chế. Đây là một sự phân biệt mà không phải tất cả các học giả đều
sử dụng. Chúng tôi nghĩ rằng sự phân biệt này là quan trọng, đặc biệt về xu hướng
trong tư liệu bỏ qua hoặc không xem xét những nền tảng thể chế và pháp lí của tổ
chức. Đó chỉ là bởi bản chất của một sự sắp xếp về thể chế mà một tổ chức có thể thự
hiện như thể nó là một con người với những quyền và nghĩa vụ được thiết kế một
cách đặc biệt.
Phần khó để hiểu những thể chế chính là tính phổ biến và đa dạng của chúng. Một sự
sắp xếp về thể chế có thể là rất đơn giản (chẳng hạn, tín hiệu đèn đỏ hay chuông của
trường học) hoặc được tranh luận gay gắt và phức tạp (chẳng hạn như sinh sản vô
tính từ tế bào thân, những luật về môi trường, thực hành kiểm toán và tư vấn bởi
những công ty kế toán). Sự sắp xếp về thể chế có thể áp dụng cho những thực thể thể
chế đơn lẻ (chẳng hạn như việc thuê tuyển nội bộ trong công ty hay những chính sách
thăng tiến), những tổ chức trong một ngành hoặc dân cư (chẳng hạn như những tiêu
chuẩn công nghệ, quy định về cạnh tranh thị trường hoặc việc hình thành một tổ chức
cụ thể), tất cả những cư dân của một quốc gia (chẳng hạn, việc đánh thuế, quyền về
tài sản, luật về quyền tự do công dân), những con người trong nhiều đất nước (chẳng
hạn như luật về quyền con người, thuế quan và hiệp định thương mại, những thỏa
thuận về môi trường trên toàn thế giới, những giá trị về ngoại tệ.)
Chúng tôi định nghĩa sự thay đổi về thể chế như là sự khác nhau trong việc hình
thành, chất lượng hoặc trạng thái qua thời gian trong một thể chế. Sự thay đổi về sắp
xếp trong thể chế có thể bị quyết định bởi việc quan sát sự sắp xếp tại 2 thời điểm
hoặc nhiều hơn trong tập hợp các khía cạnh (chẳng hạn như nhận thức, chuẩn mực và
sự rõ ràng về mặt quy định) và sau đó tính toán sự khác nhau qua thời gian trong các
khía cạnh này. Nếu có sự khác biệt đáng kể, chúng tôi có thể nói rằng sự sắp xếp về
thể chế đã thay đổi. Nhiều quan điểm trong tài liệu đồ sộ về sự thay đổi thể chế tập
7
trung vào bản chất của sự khác biệt này, điều gì sản sinh ra chúng, và những hậu quả.
Điều ít được chú ý hơn sẽ liên quan đến những tiến trình của sự thay đổi về thể chế.
2 định nghĩa khác biệt về tiến trình thường được sử dụng trong tài liệu: (1) danh mục
các khái niệm hay các biến số liên quan đế những hành động và hoạt động và (2) sự
mô tả tường thuật về cách thức mà mọi thứ phát triển và thay đổi (Van de Ven,
1992). Khi định nghĩa đầu tiên được sử dụng, tiến trình thường đi kèm với “thuyết
sai số” (Mohr, 1982) về sự thay đổi, mà trong đó tập hợp những biến số độc lập giải
thích về mặt thống kê những sai số trong các tiêu chuẩn kết quả (biến phụ thuộc). Ý
nghĩa thứ hai của tiến trình thường ki kèm với sự giải thích theo “thuyết tiến trình”
về trật tự thời gian và trình tự trong đó tập hợp những sự kiện thay đổi mang tính
riêng biệt là xảy ra dựa trên câu chuyện hay sự tường thuật mang tính lịch sử (Abott,
1988; Pentland, 1999; Poole, Van de Ven, Dooley, và Holmes, 2000). Theo cách sử
dụng này, vấn đề về “cách mà sự thay đổi diễn ra” được xác định bởi việc tường
thuật trình tự thời gian những sự kiện diễn ra trong một sự sắp xếp về thể chế.
Trong việc xem lại tài liệu, chúng tôi xem các công trình cụ thể như là những thuyết
tiến trình hay thuyết biến số. Trong khi những ví dụ của thuyết tiến trình và thuyết
biến số có thể được tìm thấy trong mỗi khía cạnh của 4 khía cạnh về sự thay đổi được
xác định trong chương này, hầu hết công trình hiện nay về sự thay đổi về chể quan
tâm đến thuyết sai số. Trong khi một nghiên cứu đơn lẻ lại sử dụng thuyết sai số hoặc
thuyết tiến trình nhưng không cả hai, 2 cách tiếp cận này là không mang tính duy
nhất về lí thuyết và trong thực tế chúng có thể bổ sung cho nhau. Poole và cộng sự
(2000, chương 2) đã thảo luận sâu hơn về các phân biệt quan trọng giữa thuyết tiến
trình và sai số.
Những học giả về thể chế đã tranh luận không ngừng về việc liệu sự thay đổi về thể
chế có liên tục và mang tính tiến hóa hay không liên tục và mang tính cách mạng.
Chúng tôi tán thành với Campbell (2001) rằng sự phân biệt giữa sự thay đổi mang
tính tiến hóa và sự thay đổi mang tính cách mạng phần lớn chính là chức năng của
mức độ phân tích và phạm vi thời gian của tiến trình thay đổi. Điều hóa ra chính là sự
8
thay đổi không liên tục theo khoảng cách có thể được xem xét kĩ hơn có thể được
xem là mang tính liên tục và dần dần. Chẳng hạn, trong nghiên cứu về hậu cộng sản
ở Đông Âu và Liên minh Xô Viết cũ, Campbell va Pedersen (1996) dẫn ra rằng
những thay đổi dường như mang tính cách mạng trong các cấu trúc cầm quyền ở
quốc gia thực tế là kết quả của những thay đổi mang tính tiến hóa hơn trong những
cấu trúc rời rạc.
Một vài học giả đã phát triển những mô hình khác nhau để phân biệt những khuôn
mẫu thay đổi liên tục (lớn lên, tiến hóa) và không liên tục (trạng thái cân bằng ngắt
quãng). Chúng tôi thắc mắc là liệu những mô hình khác nhau có hữu ích hay không.
Liệu sự thay đổi bắt đầu từ mức độ lớn dần lên (chậm, dần dần) hoặc triệt để (nhanh
chóng, bất thình lình) chính là câu hỏi thực nghiệm. Sử dụng các mô hình khác nhau
để giải thích tầm quan trọng khác nhau của sự thay đổi được quan sát dựa theo đóng
góp hóa ra không phải là chiến lược tốt để xây dựng lí thuyết tổng quát và chi tiết.
Một lí thuyết đơn lẻ chắc sẽ trở nên hữu ích và thiết thực hơn nhiều. Trên thực tế, lí
thuyết trạng thái cân bằng ngắt quãng đã được xem như là một phần của hình thức
rộng hơn cả tính năng động vô tuyến phản ánh chức năng quyền lực đảo ngược. Điều
này khá thú vị, dựa vào đó có thể phát triển một lí thuyết đơn lẻ (với một cơ chế sản
sinh phổ biến) có thể giải thích những đóng góp rộng lớn đối với tầm quan trọng và
mức độ của sự thay đổi được quan sát trong thế giới thực nghiệm.
Khuôn khổ hướng dẫn việc xem lại tài liệu
Không may là việc xem xét lại của chúng tôi đối với những tài liệu ngổn ngang thuộc
nhiều lĩnh vực về sự thay đổi thể chế không thể được tích hợp thành một quan điểm
đơn lẻ. Các học giả không hội tụ cùng một vấn đề đơn lẻ hay lí thuyết thay đổi. Thay
vào đó, chúng tôi nghĩ rằng họ đồng thuận với nhau về 4 khái niệm phân biệt của sự
thay đổi về thể chế. Mỗi khái niệm chỉ ra những vấn đề khác nhau và dựa trên cơ chế
sản sinh độc đáo để giải thích sự thay đổi. Chúng tôi đặt tên cho 4 khái niệm là thiết
kế thể chế, sự thích ứng về thể chế, sự phổ biến thể chế và hành động tập thể. Những
9
khía cạnh phân biệt của 4 khái niệm này được vạch ra trong bảng 9.1 và được tóm tắt
ở dưới.
Khái niệm thiết kế thể chế tập trung vào sự sáng tạo có mục đích và sự sửa lại của
các thể chế nhằm nhận diện các mâu thuẫn và bất đồng về xã hội. Cơ chế sản sinh để
nhận diện các vấn đề về cách mà các thể chế được thiết lập và nổi lên chính là sự ban
hành có mục đích và sự xây dựng xã hội. Theo cách nhìn này, các thể chế phản ảnh
việc chạy theo những lựa chọn có ý thức và hành vi mà xã hội cho là khôn ngoan và
hợp lí.
Khái niệm sự thích nghi về thể chế giải thích cách thức và nguyên nhân mà các tổ
chức thích nghi với những lực lượng trong môi trường của mình. Scott (2001) cho
rằng kể từ công trình của Meyer và Rowan 1977, các nhà xã hội học về tổ chức đã
tập trung sự chú ý của mình vào vấn đề về cách mà môi trường của thể chế định hình
cấu trúc tổ chức. Công trình của những người theo trường phái thể chế mới này có
thể được xem là sử dụng khái niệm sự thích nghi về thể chế.
Khái niệm sự phổ biến về thể chế tập trung vào cách thức và nguyên nhân mà những
thể chế cụ thể được tiếp nhận (lựa chọn) và phổ biến (duy trì) trong dân cư.
Bảng 9.1 – Những khía cạnh phân biệt 4 khái niệm về sự thay đổi thể chế
Khía cạnh Thiết kế thể Sự thích nghi Sự phổ biến Hành động tập
chế về thể chế thể chế thể
Vấn đề Những hành Làm thế nào Làm thế nào Làm thế nào
động và vai trò mà những tổ mà những sắp mà những thể
mà những cá chức riêng lẻ xếp về thể chế chế nổi lên để
nhân trong thể thích nghi với tái sản xuất, tạo điều kiện
chế đảm nhận môi trường thể phổ biến hoặc và dẫn dắt
nhằm thiết lập chế của mình? giảm sút trong những chuyển
hoặc thay đổi Tại sao những dân cư hoặc về biến xã hội
10
một sự sắp xếp tổ chức lại sử khía cạnh tổ hoặc những cải
trong thể chế? dụng những chức? tiến về công
thể chế tương Tại sao các tổ nghệ?
tự nhau? chức lại giống
nhau?
Những người Những doanh Những người Dân cư và Mạng lưới
quan trọng nhân đơn lẻ trong tổ chức ngành của tổ những người
trong thể chế với sự đại diện thích nghi (tiên chức được thể được phân bố
có giới hạn: sự phong hay hiện trong và phân chia
đánh giá lẫn phản ứng lại) cùng một môi bè phái về mặt
nhau mang tính đối với