Quan điểm về sự thay đổi chiế n lược trong tổ chức
Arie Y. Lewin, Carmen B. Weigelt, & James D. Emery
Nghiên cứu về thay đổi tổ chức, như nhiều chương trong cuốn sổ tay
này thể hiện, phản ánh phong phú và đa dạng quan điểm lý thuyết và phương
pháp tiếp cận thực nghiệm. Trong chương này chúng tôi quay trở lại một cuộc
tranh luận kiểm tra việc lựa chọn thích ứng (Baum , năm 1996, Lewin và
Volberda, 1999). Mục đích của chúng tôi là xem xét các tác động của các lý
thuyết khác nhau về thích ứng và lựa chọn cho chiến lược và thay đổi. Đặc
biệt, chúng tôi xem xét lại các lý thuyết và nghiên cứu thực nghi ệm rằng thông
báo việc thích ứng cấp tổ chức như là một kết quả trực tiếp của quản trị chiế n
lược và thay đổi tổ chức hoặc có ý nghĩa cho sự thay đổi tổ chức, nhưng làm
không có giả định trực tiếp hoặc rõ ràng về chủ ý quản lý.
Trong chương này chúng tôi không xem xét lại các l ý thuyết và hậu quả
của thay đổi nơi đơn vị phân tích là cá nhân hoặc nhóm. Chúng tôi thừa nhận
rằng các nhà quản lý và cá nhân khác nhau rất nhiều trong xử lý thông tin của
họ và ra quyết định do nhận thức xã hội , nhận thức chọn lọc , quản lý xây
dựng môi trường, đặc điểm cá nhân, bản án và quyết định những thành kiến,
sự leo thang của cam kết, và kết quả tương tác theo ngữ cảnh . Quản lý chủ
yếu là tự học, cấu trúc của kiến thức của họ và quá trình nhận thức được neo
trong kinh nghiệm trực tiếp, và hình dạng kinh nghiệm, đến một mức độ lớn,
những gì họ biết và những gì họ làm . Nó cũng vượt ra ngoài phạm vi của
chương này để xem lại những bằng chứng thực nghi ệm liên quan đến việc
giải thích theo ngữ cảnh không biế t nguyên nhân của sự thích nghi cụ thể tổ
chức (Desanctis và Poole, 1994; Sydow và Windeler năm 1998; Walsh, 1995).
86 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2017 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự thích nghi, sự lựa chọn chiến lược và sự thay đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỚP MBA8
TIỂU LUẬN
MÔN: THAY ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC
Chương 5
SỰ THÍCH NGHI, SỰ LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC
VÀ SỰ THAY ĐỔI
GIẢNG VIÊN: TIẾN SỸ NGUYỄN HỮ U LAM
TRỢ GIẢNG: THẠC SỸ TRẦN HỒNG HẢI
NHÓM 5:
Nguyễn Minh hải
Lê Anh Đức
Lê Hùng Tú
Trương Thị Hồng Nguyệt
Tháng 5 /2010
Quan điểm về sự thay đổi chiến lược trong tổ chức
Arie Y. Lewin, Carmen B. Weigelt, & James D. Emery
Nghiên cứu về thay đổi tổ chức, như nhiều chương trong cuốn sổ tay
này thể hiện, phản ánh phong phú và đa dạng quan điểm lý thuyết và phương
pháp tiếp cận thực nghiệm. Trong chương này chúng tôi quay trở lại một cuộc
tranh luận kiểm tra việc lựa chọn thích ứng (Baum , năm 1996, Lewin và
Volberda, 1999). Mục đích của chúng tôi là xem xét các tác động của các lý
thuyết khác nhau về thích ứng và lựa chọn cho chiến lược và thay đổi. Đặc
biệt, chúng tôi xem xét lại các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm rằng thông
báo việc thích ứng cấp tổ chức như là một kết quả trực tiếp của quản trị chiến
lược và thay đổi tổ chức hoặc có ý nghĩa cho sự thay đổi tổ chức, nhưng làm
không có giả định trực tiếp hoặc rõ ràng về chủ ý quản lý.
Trong chương này chúng tôi không xem xét lại các l ý thuyết và hậu quả
của thay đổi nơi đơn vị phân tích là cá nhân hoặc nhóm. Chúng tôi thừa nhận
rằng các nhà quản lý và cá nhân khác nhau rất nhiều trong xử lý thông tin của
họ và ra quyết định do nhận thức xã hội, nhận thức chọn lọc, quản lý xây
dựng môi trường, đặc điểm cá nhân, bản án và quyết định những thành kiến,
sự leo thang của cam kết, và kết quả tương tác theo ngữ cảnh. Quản lý chủ
yếu là tự học, cấu trúc của kiến thức của họ và quá trình nhận thức được neo
trong kinh nghiệm trực tiếp, và hình dạng kinh nghiệm, đến một mức độ lớn,
những gì họ biết và những gì họ làm . Nó cũng vượt ra ngoài phạm vi của
chương này để xem lại những bằng chứng thực nghiệm liên quan đến việc
giải thích theo ngữ cảnh không biết nguyên nhân của sự thích nghi cụ thể tổ
chức (Desanctis và Poole, 1994; Sydow và Windeler năm 1998; Walsh, 1995).
Trong việc hình thành cấu trúc chương này, chúng tôi nhận ra rằng dữ
liệu thực nghiệm hỗ trợ việc quan sát rằng hầu hết công ty được chọn ra. Tuy
nhiên, lý thuyết không phân biệt giữa những cơ hội sống còn của công ty
được quản lý trong thời gian tương đối dài với những cơ hội được quản lý
trong thời gian ngắn. Lý thuyết chọn lựa – thích nghi theo kinh nghiệm là một
phạm vi lớn bằng cách đáp lại biện pháp sống còn tác động tương tự là sự hỗ
trợ trực tiếp đối với việc thích nghi cụ thể hay lý thuyết chọn lọc. Các l ý thuyết
thích nghi chiến lược giải thích sự sống còn là chứng cớ mà công ty nằm
trong dấu hỏi có tài nguyên và khả năng duy nhất hay chế độ công việc
thường ngày cao hơn hay chiến lược chỉ định tài nguyên tốt nhất giải thích ưu
điểm cạnh tranh, và vì vậy tồn tại. Lý thuyết sinh thái học dân số giải thích s ự
sống sót là chứng cớ mà những người mới vào nghề là dạng tổ chức sống
còn và các công ty hiện thời được chọn ra. Tuy nhiên, về mặt l ý thuyết hay
kinh nghiệm, lý thuyết sinh thái học dân số không có liên quan với việc học
thích nghi của công ty cá thể. Vì vậy, lý thuyết hay cuộc nghiên cứu theo kinh
nghiệm không đưa ra sự hiểu biết sâu sắc về công ty cá thể thích nghi và thay
đổi thành công khi dân số gốc cùng tiến triển thành dạng tổ chức mới do
những người mới gia nhập đại diện.
Một kết luận nổi bật lên từ việc xét lại này là cuộc nghiên cứu lựa chọn
và thích nghi đại diện hai m ức độ phân tích không phân cắt. Vì vậy, nhiều
cuộc tranh luận chọn lựa thích nghi không phải là m ột cuộc tranh luận nào cả.
Lý thuyết thích nghi chiến lược không có liên quan với thích nghi mức độ vĩ
m ô (thống kê) và lý thuyết m ức độ dân số thích nghi bỏ qua mức độ vi m ô.
Hơn nữa, lý thuyết thích ứng chiến lược chính nó là khuyết tật bằng cách
phân chia và không kết nối giữa các tổ chức vĩ mô và lý thuyết chiến lược
thích ứng và thay đổi. Mặc dù các kết luận chung của các nghiên cứu thống
kê về sự sống còn được hỗ trợ bởi cơ sở lý thuyết thực nghiệm còn sinh tồn
(hầu hết các công ty được lựa chọn ra), chúng tôi cung cấp, trong phần cuối
cùng của chương này, một sự giải thích lần nữa tại sao các công ty sống sót
có thể chống lại quán tính cấu trúc, cùng tiến triển, điều chỉnh, và tự tái tạo
theo thời gian.
Chương này được tổ chức thành bốn phần chính: (1) các lý thuyết cấp
công ty liên kết khả năng cấp công ty và chiến lược với thích nghi và sống sót,
(2) lý thuyết trung m ô (mesolevel) hoặc lý thuyết ranh giới liên kết công ty với
m ôi trường vĩ mô và môi trường thể chế, (3) các lý thuyết liên kết với công ty
đối với môi trường vĩ mô, và (4) tác động đối với thích ứng và thay đổi và
nghiên cứu trong tương lai. Hình 5,1 mô tả một cái nhìn cùng phát triển của
các lý thuyết phê bình trong chương này, vị trí của mình trong cuộc tranh luận
thích ứng lựa chọn, hướng nhân quả của họ, và mức phân tích. Cụ thể, chúng
tôi xem xét các lý thuyết rằng sự tập trung về các chiến lược nội bộ công ty và
thay đổi, lý thuyết trung m ô (mesolevel) tập trung vào ranh giới giữa công ty
và môi trường cạnh tranh của nó, lý thuyết về vai trò của môi trường thể chế
về công nghiệp và thích ứng công ty, và các lý thuyết về động thái mức độ
thống kê liên quan đến những công ty mới gia nhập và lực lượng của sự thay
đổi vĩ m ô như là các tiến bộ công nghệ và phong trào xã hội. Chúng tôi xem
xét lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm có nguồn gốc ở xã hội học (sinh thái
học thống kê, lý thuyết thể chế), kinh tế (các tổ chức công nghiệp, kinh tế phát
triển, kinh tế chi phí giao dịch, hành vi lý thuyết về hành vi của công ty), và
quản lý chiến l ược (sự phụ thuộc tài nguyên, nhấn mạnh sự cân bằng, sự lựa
chọn chiến lược, quan điểm dựa vào việc học và tài nguyên) khi họ thông báo
thích ứng tổ chức.
Mục tiêu tổng quát của chương này là một tổng hợp thống nhất của
những gì Pfeffer (1993) mô tả như là một “bản vá cỏ dại" cơ sở lý thuyết của
các lý thuyết phát triển hạt nhân thúc đẩy nghiên cứu mô dường như cạnh
tranh và mâu thuẫn, hỗ trợ bởi các biện pháp riêng, các điều khoản của họ, và
khái niệm. Mặc dù nó có thể được an ủi để đăng ký vào kết luận của Pfeffer
rằng rất khó để phân biệt trong những gì hướng kiến thức về khoa học tổ
chức đang tiến triển, chúng tôi tin rằng lý thuyết và nghiên cứu xem xét trong
chương này thông báo cho nhiều mặt của chiến lược và nghiên cứu thích
ứng. Phần chính yếu của nghiên cứu này có thể được xem là thông báo quan
điểm thích ứng đa biến, hoài bão, cùng phát triển. Hơn thế nữa, chúng tôi tin
rằng nhiều ống kính trong một khuôn khổ cùng phát triển là cần thiết cho một
sự hiểu biết toàn diện hơn của thích ứng tổ chức và thay đổi như nhúng trong
ngữ cảnh môi trường và thể chế lớn hơn.
Trong phần 4, chúng tôi thảo luận về tác động của đánh giá của chúng
tôi đối với thích ứng và thay đổi tổ chức và đặc biệt xem xét tại sao các công
ty ít thành công trong việc tồn tại, thích nghi, và cùng phát triển qua thời gian
với một số tác động đối với nghiên cứu tương lai về sự thích nghi và thay đổi.
Hình 5.1 Khung cơ sở lý thuyết của sự lựa chọn/ thích nghi.
I. Các lý thuyết tập trung vào công ty
Mô tả của công ty là "m ột gói các nguồn tài nguyên" bước đầu đã được
kết nối bởi Penrose (1959), người đóng khung ý tưởng về tính không đồng
nhất "của các dịch vụ sản xuất có sẵn hoặc có khả năng có sẵn từ nguồn lực
của nó cung cấp cho m ỗi công ty tính độc đáo của nó" (trang 75). Trong khuôn
khổ này, các nguồn lực công ty được xác định là tài sản hữu hình và vô hình
(ví dụ như tài sản vật chất, tài sản con người, cũng như các nguồn lực tổ chức
như các thuộc tính công ty, vốn, hoặc các quá trình tổ chức) đã được gắn vào
trong công ty (Barney, năm 1991; Wernerfelt, 1984). Mặc dù lý thuyết dựa
vào tài nguyên tập trung vào các điều kiện m à các nguồn lực công ty dẫn đến
lợi thế cạnh tranh bền vững, nó thích hợp nhận ra rằng không phải tất cả các
nguồn lực là một nguồn lợi thế bền vững. Chỉ có những nguồn tài nguyên có
giá trị, quý hiếm, mô phỏng không hoàn hảo, và duy nhất về chiến lược không
thể thay thế được cho là nguồn cung cấp lợi thế cạnh tranh bền vững (Barney,
1991).
Nhữ ng giả định và trọng tâm nghiên cứu
Quan điểm dựa trên nguồn lực tập trung vào các công ty là cấp phân
tích và các nguồn tài nguyên của nó như là đơn vị phân tích. Mục tiêu trung
tâm của quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên chỉ ra là các công ty cá thể tận
dụng các nguồn lực để xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững. Lý thuyết dựa
vào tài nguyên được xây dựng trên một số giả định quan trọng bao gồm tính
không đồng nhất nguồn lực, sự tồn tại nguồn lực duy nhất hay mô phỏng, làm
giới hạn tính di động nguồn lực và cạnh tranh, và vai trò của khả năng động
lực học chẳng hạn sáng tạo kiến thức và hội nhập. Lý thuyết dựa trên tài
nguyên cũng đã có xu hướng xem sự thay đổi từ m ột quan điểm cân bằng
theo định hướng; quan điểm này có những tác động đối với các sáng kiến
nghiên cứu trong tương lai bao gồm cả cơ hội để hội nhập với quan điểm lý
thuyết khác. Chúng tôi thăm dò mỗi điểm này dưới đây.
Ngược lại với giả định đặc trưng ở lý thuyết kinh tế về tính đồng nhất
trong số các công ty trong ngành công nghiệp, quan điểm dựa vào nguồn lực
giả định tính đồng nhất nguồn lực trong số các công ty. Tính không đồng nhất
trong yểm trợ tài nguyên giữa các công ty xuất phát từ sự khác biệt trong thu
thập thông tin, m ay mắn, khả năng quản lý, hoặc bí quyết kỹ thuật. Các khác
biệt nguồn tài nguyên này có thể trình bày m ột nguồn tiền thuê và lợi thế bền
vững (Barney, 1986, 1991; Mahoney và Pandian, 1992). Trong đó, thẩm
quyền riêng biệt của một doanh nghiệp để sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
duy nhất khả năng của nó có thể cho phép công ty cho thuê phù hợp bền
vững (Penrose, 1959; Hitt và Ireland, 1985). Vì vậy, thay vì tập trung vào “
công ty đại diện " và hành vi của mình, quan điểm dựa vào tài nguyên tập
trung vào các nguồn tài nguyên độc đáo và đặc trưng cho công ty đó phân biệt
các công ty và hiệu năng trong một ngành công nghiệp (Mahaney và Pandian
năm 1992; Prahalad và Hamel, 1990 ).
Theo quan điểm này, nguồn lực được coi là có giá trị nếu họ cho phép
m ột công ty để tăng năng suất và hiệu quả, và hiếm khi họ cho phép một công
ty thực hiện chiến lược m à không thể thực hiện đồng thời bởi các công ty
khác (Barney, 1991). Hơn nữa, nguồn tài nguyên quý hiếm và có giá trị là một
nguồn lợi thế cạnh tranh bền vững chỉ khi chúng không thể bắt chước được
bởi đối thủ cạnh tranh và bất động, do đó làm cho các công ty khác không có
được chúng (Barney, 1991; Peteraf, 1993). Nguồn tài nguyên nói chung được
xem là không thể bắt chước được nếu (a) chúng được gắn vào lịch sử công
ty, (b) mối quan hệ kết quả thực hiện m ơ hồ về nhân quả (Lippman và Rumelt,
1982), hoặc (c) chúng phức tạp về mặt xã hội (Dierickx và Cool, 1989). Giới
hạn tính di động nguồn lực có thể phát sinh tương tự từ m ột số yếu tố.
Một số nhà nghiên cứu đã thăm dò các khái niệm rào cản để đi vào cấp
độ công ty (Bain, 1956) và hàng rào di động ở cấp độ nhóm chiến lược (Caves
và Porter, 1977). Một số đã thảo luận về "cơ chế cô lập" để mô tả những hiện
tượng tìm chỗ nương tựa cho tài nguyên chiến lược công ty từ việc mua lại
hoặc bắt chước (Rumelt, 1984). Ví dụ, các cơ chế cô lập như vậy có thể được
phản ánh trong quyền sở hữu trí tuệ cũng như trong thông tin hoặc học tập
không cân xứng (Rumelt, 1987). Các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như Peteraf
(1993), đã nhấn mạnh những giới hạn với sự cạnh tranh nguồn lực là quan
trọng đối với lợi thế cạnh tranh bền vững dựa trên sự khác biệt giữa các công
ty tài nguyên. Thường thì tài nguyên duy nhất, không thể bắt chước, và bất
động phụ thuộc đường dẫn; có nghĩa là, các nguồn lực này đã phát triển trong
m ột tổ chức theo thời gian và do đó không thể mua trên thị trường cũng không
thể bắt chước trong thời hạn ngắn. Teece, Pisano, và Shuen (1997) đề nghị
khả năng năng động, các cơ chế mà qua đó các công ty phát triển và tiêu tan
khả năng mới, tạo thành một nguồn chính của lợi thế cạnh tranh. Như vậy,
nguồn lực phát triển bên trong và lề thói thường ngày cụ thể với tổ chức coi
thường việc bắt chước và xây dựng lợi thế chiến lược, dẫn đến quan điểm
cho rằng kiến thức tạo và hội nhập có lẽ là tài sản quan trọng nhất của công ty
(Conner và Prahalad, 1996; Dierickx và Cool, 1989; Grant, 1996; Leonard-
Barton, 1992).
Cuối cùng, lý thuyết dựa vào nguồn tài nguyên xem xét các tác động
biến đổi môi trường trên các nguồn lợi thế cạnh tranh của công ty. Sự thay đổi
và hỗn loạn môi trường được cho là xói mòn lợi thế cạnh tranh bằng cách
dựng hình yểm trợ chiến lược tài nguyên duy nhất lỗi thời. Vì vậy, để duy trì
lợi thế cạnh tranh theo thời gian, các công ty có lợi thế nhất quán theo thời
gian, các công ty phải liên tục tái sinh và phát triển các cơ sở tài nguyên của
họ. Wernerfelt (1984) nói rằng "sự phát triển tối ưu của công ty liên quan đến
m ột sự cân bằng giữa khai thác [tối đa hóa việc sử dụng]1 của nguồn lực hiện
có và phát triển những cái mới" (trang 178), ngụ ý một quá trình thay đổi năng
động. Tuy nhiên, lý thuyết dựa trên nguồn tài nguyên có xu hướng cân bằng
theo định hướng. Ví dụ, Dierickx và Cool (1989) thông qua một viễn cảnh tĩnh
của lý thuyết dựa trên nguồn tài nguyên bằng cách cho rằng thay đổi khoản
hiến tặng tài nguyên của công ty có thay đổi đáng kể dài hơn thay đổi chiến
lược thị trường. Giả định chính của họ là mức độ thích hợp của việc thay đổi
tổ chức ở tỷ lệ chậm hơn những thay đổi môi trường, công nghệ, quy định, và
xã hội. Vì vậy, họ cho rằng lý thuyết dựa vào tài nguyên có thể có lợi từ m ột
m ô hình hướng tới quá trình nhiều hơn, ví dụ, liên quan sự tổng hợp lý thuyết
phát triển (Foss, Knudsen, và Montgom ery năm 1995).
Sự tập trung thực nghiệm chính
Cách tiếp cận dựa trên tài nguyên đã ảnh hưởng một số dòng nghiên
cứu thực nghiệm, bao gồm: (a) thời gian đi vào thị trường mới (Mahoney và
Pandian, 1992) và lợi thế người tiên phong (Lieberman và Montgom ery năm
1998), (b) đa dạng hóa, và (c) sáp nhập và mua lại. Chúng tôi kiểm tra m au lẹ
các khu vực nghiên cứu này trong phần này.
Mối quan hệ của thời gian gia nhập thị trường để thực hiện công ty này
từ lâu đã quan tâm đến cả hai nhà nghiên cứu và quản lý. Nghiên cứu dựa
trên kinh nghiệm về thời gian gia nhập đã cho thấy nguồn tài nguyên công ty,
như khả năng công nghệ và tiếp thị, được kết hợp cụ thể với thời gian gia
nhập (Mitchell , 1989; Schoenecker và Cooper, 1998). Robinson, Fornell, và
Sullivan (1992) cũng tìm thấy m ột mối quan hệ tích cực giữa các kỹ năng tài
chính mạnh m ẽ của công ty và sự gia nhập thị trường tiên phong. Những ưu
thế người tiên phong thường được coi là quan trọng như là một nguồn của
các rào cản gia nhập thị trường m ột. Trong quan điểm dựa trên nguồn tài
nguyên, chiến lược, khan hiếm và không thể bắt chước được có thể dẫn đến
những ưu thế tiên phong đầu tiên (Lieberm an và Montgom ery, 1988, 1998;
Makadok, 1998). Theo Barney (1991, trang. 102) tính bền vững của lợi thế
cạnh tranh "phụ thuộc vào khả năng sao chép cạnh tranh" hơn là trên lịch thời
gian trôi qua. Vì vậy, "một lợi thế cạnh tranh được duy trì chỉ khi nó tiếp tục tồn
tại sau khi các nỗ lực để trùng lặp rằng lợi thế đã chấm dứt." Nghiên cứu
ngành công nghiệp tương trợ thị trường tiền tệ, Makadok (1998) cho thấy
những ưu thế người tiên phong về thị phần chỉ từng bước bị ăn mòn dần và
khiêm tốn bởi người mới vào nghề. Ông ấy cũng lưu ý rằng nó có vẻ mất m ột
số lượng người mới vào nghề cho các lợi thế tiên phong để xói mòn. Ông ấy
đã quy cho các ưu thế tiên phong với xói mòn với việc sở hữu nguồn tài
nguyên không thể bắt chước.
Quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên khẳng định rằng nguồn tài
nguyên công ty có thể là người lèo lái sự đa dạng hóa và đạt được, ngoài lợi
thế người tiên phong và các rào cản gia nhập (Barney năm 1991; Conner,
1991); Penrose, 1959; Wernerfelt, 1984, 1989). Phần chính yếu nghiên cứu cụ
thể về sự đa dạng hóa đã bị ảnh hưởng bởi các l ý thuyết dựa trên nguồn tài
nguyên. Quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên đã được s ử dụng để giải thích
các giới hạn của sự tăng trưởng thông qua đa dạng hoá, động lực cho đa
dạng hóa, và trở về khác nhau đối với các loại đa dạng khác nhau. Quan điểm
dựa trên nguồn tài nguyên cũng đã được sử dụng để cung cấp m ột cơ sở lý
thuyết để dự đoán theo hướng đa dạng hóa (Ramanujam và Varadarajan,
1989). Ví dụ, quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên dự đoán rằng các công ty
nên được hưởng lợi nhiều nhất từ sự đa dạng hóa vào thị trường, trong đó
sức mạnh tài nguyên hiện tại của họ có thể được áp dụng (Chang, 1996;
Chatterjee và Wernerfelt năm 1991; Montgomery và Hariharan, 1991). Nhiều
nghiên cứu thực nghiệm về đa dạng hóa và hiệu suất đã hỗ trợ dự báo này
bằng cách tìm các kết quả hiệu suất cao hơn cho các liên quan, chứ không
phải là đa dạng hóa không liên quan (Rumelt, 1974; Montgomery và
Wernerfelt, 1988; Palepu, 1985; Singh và Montgomery năm 1987; Varadarajan
và Ram anujam, 1987 ). Chang (1996) cũng đã chỉ ra rằng không giô ng nhau
trong các cấu nguồn nhân lực giữa các công ty kinh doanh cốt lõi và m ột thị
trường tiềm năng m ới có thể làm giảm khả năng của một công ty khi nhập thị
trường. Hơn nữa, ông đã chứng minh rằng công ty có nhiều khả năng để
thoát ra ngành nghề kinh doanh mà thiếu nguồn tài nguyên tương tự với kinh
doanh cốt lõi của họ (Chang và Singh, 1999). Tuy nhiên, một số chứng cứ
m âu thuẫn tồn tại, như m ột số nghiên cứu đã thất bại để tìm hỗ trợ cho các
m ối quan hệ tích cực giữa mối quan hệ xác thực giả thuyết giữa nguồn lực và
thực hiện sau khi gia nhập (Sharma và Kesner, 1996).
Kể từ khi nguồn tài nguyên chiến lược và cho thuê tạo ra, được giả định
là không thương mại hay di động qua các công ty, sáp nhập và sự đạt được
chỉ là cách duy nhất để có được các bó tài nguyên chiến lược (Wernerfelt,
1984). Quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên giả định rằng các công ty đa
ngành có được lợi thế bền vững nguồn tài nguyên duy nhất chỉ có thể được
chia sẻ một cách hiệu quả giữa các đơn vị (Robins và Wiersem a, 1995) hoặc
sự thu được chỉ tạo ra giá trị bất thường nếu người đạt được và nguồn tài
nguyên mục tiêu có thể được kết hợp duy nhất và có chiến lược (Barney,
1988). Với những tiên lượng trước này, có lẽ là không đáng ngạc nhiên rằng
các dòng của nghiên cứu về sáp nhập và mua lại đã không được tìm thấy hỗ
trợ cho người thu được có được số tiền thanh toán bằng cách này và việc
hoàn lại trên bình thường từ mua lại (Agrawal , Jaffe, và Mandelker năm 1992;
Malatesta, 1983). Xây dựng trên lý thuyết dựa trên nguồn tài nguyên, Barney
(1986, 1988) tranh luận rằng giá thuê sẽ đổ dồn vào người thu nếu công ty
đấu thầu sở hữu thông tin cá nhân, m ay mắn, hoặc hiệp trợ cụ thể với mục
tiêu tiềm năng mà không phải là dễ dàng bắt chước bởi người thu tiềm năng
khác. Kết quả, một số nhà nghiên cứu đã cho rằng hiệp lực như vậy có nhiều
khả năng trong việc mua lại có liên quan (Chatterjee, 1990). Do đó, trong khi
các lý thuyết dựa trên nguồn tài nguyên đã tạo ra vô số nghiên cứu thực
nghiệm, các kết quả đôi khi không rõ ràng của những nghiên cứu này đã tạo
ra những tranh cãi đối với quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên.
Nhữ ng cuộc tranh luận
Một số thách thức chính hướng vào việc nghiên cứu thực nghiệm kết
hợp quan điểm dựa trên nguồn tài nguyên dựa trên lưu ý rằng (a) một số khái
niệm quan trọng như nguồn lực hay khả năng khó thực hiện hoặc biện pháp
trực tiếp (Godfrey và Hill, 1995; Reed và DeFillippi năm 1990; Robins và
Wiersema, 1995) và (b) các lý thuyết không rõ ràng cho dù đó là một sự kết
hợp các nguồn lực hoặc một tài nguyên du