Tiểu luận SURFING THE WAVES OF GLOBALIZATION: ASIA AND FINANCIAL LOBALIZATION IN THE CONTEXT OF THE TRILEMMA

Việc lựa chọn bộ ba chính sách là Độc lập tiền tệ , Ổn định tỷ giá và Hội nhập tài chính có liên quan đến mức biến động của đầu ra của nền kinh tế và mức độ lạm phát trung hạn như thế nào luôn là một câu hỏi cho các nhà phân tích kinh tế vĩ mô cũng như các chuyên gia tài chính. Bài nghiên cứu ‘’Surfing the Waves of Globalization: Asia and Financial Globalization in the Context of the Trilemma’’ của Joshua Aizeman và các cộng sự (2010) cho chúng ta thấy được một cái nhìn rất mới về bộ ba chính sách này. Do đó, trong phạm vi bài tiểu luận môn học Tài chính quốc tế nhóm 6 – TCDN K20 ngày 1 dựa trên bài nghiên cứu trên sẽ dịch thuật kết hợp phần đọc hiểu để đưa ra những vấn đề mới của bộ ba chính sách cho mọi người cùng tham khảo, nghiên cứu. Trong điều kiện hạn chế về thời gian và rút gọn trong phạm vi một tiểu luận, bài viết chắc rằng có nhiều chỗ còn hạn chế, rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn và các bạn đề bài viết được hoàn chỉnh hơn, xin chân thành cảm ơn.

pdf28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận SURFING THE WAVES OF GLOBALIZATION: ASIA AND FINANCIAL LOBALIZATION IN THE CONTEXT OF THE TRILEMMA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 1/28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM KHOA SAU ĐẠI HỌC  TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: SURFING THE WAVES OF GLOBALIZATION: ASIA AND FINANCIAL LOBALIZATION IN THE CONTEXT OF THE TRILEMMA + GVHD : Ts Nguyễn Khắc Quốc Bảo + Nhóm thực hiện : Nhóm 6 1/ Phan Kim Tuyến 2/ Nguyễn Minh Hiển 3/ Phạm Nguyên Anh 4/ Võ Thị Mỹ Hạnh 5/ Trần Viết Lâm 6/ Võ Nguyễn Huỳnh Nam 7/ Nguyễn Chí Thành 8/ Nguyễn Chí Trung 9/ Nguyễn Tấn Trung 10/ Vũ Thị Vinh 11/ Trần Thị Hải Yến 12/ Ngô Thị Mỹ Hằng 13/ Dư Minh Hiếu 14/ Nguyễn Thị Lệ Huyền 15/ Dương Kim Phú 16/ Mai Văn Luông + Lớp : TCDN NGÀY 1 – K20 TP HCM năm 2012 Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 2/28 MỤC LỤC ---oOo--- LỜI MỞ ĐẦU Trang 3 PHẦN I – TÓM TẮT VÀ ÔN LƯỢC (*) 1- Tóm tắt 2- Ôn lược Trang 4- 6 PHẦN II – CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI (*) 1- Các khái niệm về bộ ba bất khả thi 2- Phân tích hồi quy 3- Đánh giá kết quả các mô hình cơ bản 3.1. Biến động đầu ra 3.2. Biến động lạm pháp 3.3 Mô hình lạm pháp trung bình 4- Những ảnh hưởng của Châu Á 5- Kết quả biến động đầu tư và biến động tỷ giá 6- Kết quả ở khía cạnh khác của hoạt động kinh tế vĩ mô 7- Một cách nhòn cụ thể hơn Trang 7- 27 PHẦN III – KẾT LUẬN (*) Trang 27- 28 (*): Tên chương không có trong bài nghiên cứu mà do nhóm tự đặt để dễ theo dõi Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 3/28 LỜI MỞ ĐẦU Việc lựa chọn bộ ba chính sách là Độc lập tiền tệ , Ổn định tỷ giá và Hội nhập tài chính có liên quan đến mức biến động của đầu ra của nền kinh tế và mức độ lạm phát trung hạn như thế nào luôn là một câu hỏi cho các nhà phân tích kinh tế vĩ mô cũng như các chuyên gia tài chính. Bài nghiên cứu ‘’Surfing the Waves of Globalization: Asia and Financial Globalization in the Context of the Trilemma’’ của Joshua Aizeman và các cộng sự (2010) cho chúng ta thấy được một cái nhìn rất mới về bộ ba chính sách này. Do đó, trong phạm vi bài tiểu luận môn học Tài chính quốc tế nhóm 6 – TCDN K20 ngày 1 dựa trên bài nghiên cứu trên sẽ dịch thuật kết hợp phần đọc hiểu để đưa ra những vấn đề mới của bộ ba chính sách cho mọi người cùng tham khảo, nghiên cứu. Trong điều kiện hạn chế về thời gian và rút gọn trong phạm vi một tiểu luận, bài viết chắc rằng có nhiều chỗ còn hạn chế, rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn và các bạn đề bài viết được hoàn chỉnh hơn, xin chân thành cảm ơn. Trân trọng Nhóm 06 học viên cao học TCDN – K20 – Ngày 1 Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 4/28 PHẦN I TÓM TẮT & ÔN LƯỢC 1/ TÓM TẮT Việc sử dụng “Chỉ số bộ ba” được phát triển bởi Aizenman và cộng sự (2008) để đo lường mức độ đạt được trong từng mục tiêu chính sách. Đó là: 1/ Độc lập tiền tệ 2/ Ổn định tỷ giá 3/ Hội nhập tài chính Trong bài viết này chúng tôi nghiên cứu xem các dạng chính sách tác động như thế nào đến hiệu quả kinh tế vĩ mô, trong đó tập trung vào các nền kinh tế trong khu vực châu Á. Chúng tôi thấy rằng việc lựa chọn 3 chính sách này có liên quan đến mức biến động của đầu ra của nền kinh tế và mức độ lạm phát trung hạn. Chính sách tiền tệ càng độc lập thì mức biến động của đầu ra càng thấp, trong khi tỷ giá hối đoái càng ổn định thì mức biến động của đầu ra càng cao, mức biến động này có thể được giảm nhẹ nếu mức dự trữ ngoại hối của quốc gia vượt quá một ngưỡng nào đó (thường vào khoảng 20% GDP). Quyền tự chủ tiền tệ càng lớn thì tỷ lệ lạm phát càng cao trong khi tỷ giá hối đoái càng ổn định và thị trường tài chính càng hội nhập thì mức độ lạm phát càng thấp. Chúng tôi nhận thấy các dạng của bộ ba chính sách và các thị trường tài chính nước ngoài ảnh hưởng đến mức biến động đầu ra thông qua kênh đầu tư hoặc thương mại phụ thuộc vào mức độ mở cửa của các nền kinh tế. Trong khi độ ổn định cao hơn của tỷ giá hối đoái có thể làm ổn định tỷ giá hối đoái thực, nó cũng có thể làm biến động đầu tư, bởi vì hiệu ứng mở rộng biến động của chính sách ổn định tỷ giá đối với đầu tư có thể được triệt tiêu bằng cách sở hữu một lượng dự trữ ngoại hối lớn. Các kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng các nhà tạo lập chính sách trong một nền kinh tế mở thích theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá hơn khi có một lượng lớn dự trữ ngoại hối. Các nền kinh tế mới nổi ở khu vực châu Á được trang bị các dạng chính sách vĩ mô giúp các nền kinh tế này làm giảm sự biến động của tỷ giá hối đoái thực. Lượng dự trữ ngoại hối đáng kể của các nền kinh tế này dường như củng cố hiệu ứng ổn định hóa của việc lựa chọn chính sách bộ ba, và qua đó góp phần giải thích hiện tượng tích trữ ngoại hối gần đây của các quốc gia trong khu vực châu Á. Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 5/28 2/ ÔN LƯỢC Như trong bài viết, chúng tôi không biết rằng của cuộc khủng hoảng toàn cầu sẽ kéo dài bao lâu và diễn biến như thế nào. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đã đặt câu hỏi cho nền kiến trúc tài chính quốc tế hiện tại cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô riêng lẻ – vấn đề này được chú trọng trong một loạt những cuộc họp G20 tại Washington, D.C., London, và Pittsburgh. Bất kỳ cấu hình của kiến trúc tài chính quốc tế hoặc chính sách kinh tế vĩ mô nào cũng được xem xét thận trọng bởi các nhà hoạch định chính sách, họ không thể tránh khỏi việc đương đầu với Bộ Ba Bất Khả Thi – một lý thuyết cho rằng một quốc gia chỉ có thể lựa chọn đồng thời 2 trong 3 mục tiêu: độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính – không thể chọn tất cả. Bộ ba bất khả thi được minh họa như hình tam giác. Ba cạnh của tam giác là độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính mô tả mục tiêu mong muốn tiềm năng, không thể cùng một lúc đạt được ba cạnh của tam giác, Ví dụ: Đỉnh của tam giác là “thị trường vốn đóng” kết hợp với việc tự chủ trong chính sách tiền tệ, tỉ giá hối đoái cố định nhưng không hội nhập tài chính. Lịch sử đã chỉ ra rằng hệ thống tài chính quốc tế cố gắng để đạt được sự kết hợp 2 trong 3 mục tiêu chính sách, như là hệ thống Gold Standard - sự thay đổi của vốn được đảm bảo và tỷ giá hối đoái ổn định; Hệ thống Bretton Woods - với chính sách tự chủ tiền tệ & tỉ giá hối đoái ổn định. Thực tế nền kinh tế đã thay đổi sự kết hợp như phản ứng lại cơn khủng hoảng hoặc sự kiện kinh tế diễn ra để ám chỉ rằng mỗi sự lựa chọn trong 3 chính sách có thể là sự lựa chọn đúng đắn hoặc sai lầm trong điều kiện kinh tế vĩ mô có quản lý. Chính sách tiền tệ càng độc lập cho phép các nhà làm chính sách ổn định kinh tế thông qua chính sách tiền tệ mà không lệ thuộc vào việc quản trị kinh tế vĩ mô, kết quả là ổn định và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong nền kinh tế với giá cả và tiền lương khắt khe, nhà hoạch định chính sách có thể thao túng sự biến động của tăng trưởng ( ít nhất là trong ngắn hạn ), vì vậy dẫn đến tăng sản lượng và giảm thiểu lạm phát. Hơn thế nữa, nhà hoạch định chính sách tiền tệ có thể lạm dụng sự tự quản để cho phép lưu hành các khoản nợ tài chính dẫn đến mất ổn định kinh tế và kéo theo sự biến động trong tỉ lệ lạm phát. Vào thời kỳ khủng hoảng giữ cho tỷ giá hối đoái cố định cũng làm tăng lòng tin của các nhà hoạch định chính sách và vì thế dẫn đến sự tăng trưởng ổn định (Aizenman, etal., 2005). Tuy nhiên mức độ ổn định tỷ giá hối đoái càng cao cũng có thể giải phóng các nhà hoạch định Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 6/28 chính sách khỏi việc sử dụng tỷ giá hối đoái như là một công cụ để hấp thu các cú sốc bên ngoài. Prasad (2008) chứng minh rằng sự khắt khe trong tỉ giá hối đoái sẽ làm cho các nhà hoạch định chính sách khó lòng mà thực hiện được các chính sách phù hợp với thực tế kinh tế vĩ mô, họ có khuynh hướng thiên về việc tạo ra những bong bóng tài sản và bị phá vỡ bởi sức nóng của nền kinh tế. Vì vậy, sự khắt khe trong ổn định tỷ giá có thể không chỉ làm cho sản lượng bốc hơi mà còn dẫn đến không phân phối được nguồn lực, mất cân bằng và sự phát triển không bền vững. Tự do hóa tài chính có lẽ là một vấn đề được tranh luận sôi nổi nhất và là chính sách được cân nhắc nhiều nhất trong bộ ba bất khả thi. Một mặt thị trường tài chính mở có thể đem lại sự phát triển kinh tế bằng cách mở đường cho sự phân bổ nguồn lực hiệu quả, làm giảm sự bất cân xứng thông tin, nâng cao/bổ sung quỹ tiết kiệm nội địa, và giúp chuyển giao công nghệ hoặc kinh nghiệm quản trị. Hơn nữa, việc tiếp cận thị trường vốn dễ dàng hơn giúp ổn định kinh tế nhờ vào việc chia sẻ rủi ro và đa dạng hóa danh mục vốn đầu tư. Mặt khác, tự do hóa tài chính gây ra bất ổn định trong nền kinh tế, đặc biệt trong 2 thập kỷ vừa qua, bao gồm cả cuộc khủng hoảng hiện tại. Dựa trên quan điểm này, việc hội nhập tài chính cũng có thể làm bốc hơi các dòng vốn xuyên biên giới, kết quả là sự dừng lại đột ngột hoặc đảo ngược dòng vốn, làm cho nền kinh tế bị tổn thương dẫn đến phá sản ( Kaminsky và Schmukler, 2006) Vì vậy, học thuyết chỉ ra rằng mỗi sự lựa chọn chính sách trong bộ ba tài chính có thể là con dao hai lưỡi, cần được giải thích mở rộng và những điều tra thực nghiệm trên mỗi sự lựa chọn trong bộ ba chính sách. Hơn nữa, có 3 cách để kết hợp 2 chính sách trong bộ ba chính sách, hiệu quả của mỗi sự lựa chọn chính sách có thể khác nhau phụ thuộc vào cách lựa chọn chính sách nào sẽ đi với nó. Vì vậy, quan trọng là cần có những phân tích thực nghiệm về sự kết hợp của 3 loại chính sách này một cách có hệ thống và toàn diện. Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 7/28 PHẦN II CÁC VẦN ĐỀ LIÊN QUAN CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI 1/ CÁC KHÁI NIỆM BỘ BA BẤT KHẢ THI Mặc dù công nhận tính phổ biến của bộ ba bất khả thi nhưng hầu như chúng chưa từng được nghiên cứu một cách có hệ thống. Nhiều bài nghiên cứu cho vấn đề này thường tập trung vào một hoặc hai biến của bộ ba bất khả thi, nhưng không cung cấp một phân tích toàn diện tất cả các khía cạnh bộ ba chính sách. Một phần là do thiếu các số liệu thích hợp để đo lường sự thành công trong chính sách bộ ba mục tiêu. Aizenman và cộng sự (2008) vượt qua sự thiếu hụt này bằng cách phát triển một tập hợp chỉ số bộ ba bất khả thi, cho rằng thước đo mức độ mỗi một lựa chọn trong bộ ba chính sách được thực thi bởi nền kinh tế. Sử dụng các chỉ số này, chúng tôi đã kiểm tra xem liệu các chỉ số tuyến tính có liên quan đến nhau hay không, và đã xác nhận rằng một sự thay đổi trong những biến bộ ba chính sách sẽ gây ra một sự thay đổi ngược chiều ở mức trung bình có trọng số của hai nhân tố còn lại. Điều này có nghĩa, với những dự đoán mang tính lý thuyết, nền kinh tế phải đối mặt với sự đánh đổi giữa ba lựa chọn chính sách. Chúng tôi đã tạo ra “chỉ số bộ ba chính sách” cho hơn 170 nền kinh tế trong khoảng từ năm 1970 đến 2007. Chỉ số độc lập tiền tệ (MI) được dựa trên sự tương quan giữa lãi suất của một quốc gia với lãi suất của quốc gia cơ sở. Chỉ số tỷ giá hối đoái cố định (ERS) là đối nghịch với tỷ giá hối đoái biến động, ví dụ độ lệch chuẩn của tỷ lệ khấu hao hàng tháng, được đo lường bằng sự khác biệt giữa tỷ giá hối đoái của nền kinh tế nội địa và những nền kinh tế cơ sở. Mức độ hội nhập tài chính được đo lường với Chinn-Ito (2006, 2008) chỉ số kiểm soát vốn (KAOPEN). Chi tiết về xây dựng các chỉ số thể hiện ở phụ lục 1. Quỹ đạo của các chỉ số bộ ba chính sách với các nhóm quốc gia có thu nhập khác nhau. Đối với nền kinh tế công nghiệp hóa, việc mở cửa hội nhập tài chính đã được đẩy mạnh từ những năm đầu của thập niên 90 trong khi đó mức độ độc lập tiền tệ có xu hướng giảm. Vào những năm cuối của thập niên 90, chính sách tỷ giá hối đoái cố định được thực hiện một cách đáng kể. Tất cả những khuynh hướng này dường như phản ánh sự ra đời của đồng EURO vào năm 1999. Mặt khác, các nền kinh tế đang phát triển không thể hiện một sự khác biệt nào giữa các Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 8/28 chỉ số, và những sự khác biệt trước đây của chúng tùy thuộc vào liệu chúng là nền kinh tế mới nổi hay kém phát triển. Đối với những nền kinh tế mới nổi, tỷ giá hối đoái cố định đã được cắt bỏ một cách nhanh chóng từ thập niên 70 đến giữa thập niên 80. Sau khi cắt giảm khoảng đầu những năm của thập niên 80 (trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng nợ), việc hội nhập tài chính bắt đầu sử dụng đáng kể từ năm 1990 trở đi. Đối với các nền kinh tế đang phát triển khác, tỷ giá hối đoái cố định giảm xuống chậm hơn, và hội nhập tài chính có khuynh hướng tăng lên chậm hơn. Trong cả hai trường hợp, chính sách độc lập tiền tệ vẫn duy trì dược xu hướng tăng hoặc giảm ít hơn. Thật thú vị, đối với các quốc gia có nền kinh tế mới nổi, các chỉ số cho thấy hội tụ ở chính giữa. thậm chí nếu không xuất hiện ở chính giữa thì cũng nằm xung quanh đó. Kết quả này cho thấy rằng các nền kinh tế đang phát triển có thể đang cố gắng bám víu vào mức độ vừa phải của độc lập tiền tệ và hội nhập kinh tế trong khi đó vẫn duy trì ở mức cao hơn việc tỷ giá hối đoái cố định. Nói cách khác, các nền kinh tế mới nổi đã dựa vào bộ ba bất khả thi trong khoảng thời gian trùng với thời gian khi một số các nền kinh tế này bắt đầu có một dự trữ khá lớn quốc tế (IR), có khả năng chống đỡ phát sinh đánh đổi từ bộ ba chính sách. Không có bất kỳ quan sát nào có khả năng ứng dụng đối với các nền kinh tế đang phát triển không phải là mới nổi (Hình 3c). Đối với nhóm nền kinh tế này, tỷ giá hối đoái cố định được tích cực theo đổi trong suốt một thời kỳ. Ngược lại với các quốc gia có nền kinh tế thị trường mới nổi, tự do hóa tài chính không được áp dụng nhanh chóng trong nền kinh tế không phải thị trường mới nổi đang phát triển. Hơn nữa, Châu Á, đặc biệt là những nền kinh tế với thị trường mới nổi, nổi bật từ các nhóm địa lý khác của các nền kinh tế. Bảng (a) trong hình 4 thể hiện các nền kinh tế Châu Á mới nổi, sự tập trung hội tụ 3 mục tiêu này không phải là hiện tượng mới. Kể từ đầu những năm 1980, ba chỉ số này đã tập trung ở giữa. Tuy nhiên, hầu hết thời gian từ trước tới nay, ngoại trừ cuộc khủng hoảng Châu Á vào những năm 1997-98, tỷ giá hối đoái cố định dường như là chính sách lựa chọn phổ biến nhất. Trong những năm sau cuộc khủng hoảng thuộc thập niên 2000, các chỉ số này tách ra, nhưng dường như lại hội tụ lại vào những năm gần đây. Đặc tính này không xuất hiện ở những nền kinh tế thị trường không phải là mới nổi (non – EMG) ở Châu Á (b) và Châu Mỹ La Tinh (c). Đối với các nước có nền kinh tế không phải là mới nổi ở Châu Á hoặc nền kinh tế đang phát triển khổng phải ở Châu Á, sự hội tụ trong bộ ba bất khả Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 9/28 thi là trường hợp điển hình trong thập kỷ qua. Thêm một chiều hướng nghiên cứu nữa về bộ ba bất khả thi để làm sáng tỏ thêm khái niệm này. Điểm thêm vào ở đây là dự trữ ngoại hối quốc tế. Kể từ cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997-98, các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là ở Đông Á và Trung Đông, đang gia tăng lượng dự trữ ngoại hối. Trung Quốc, một nước có lượng dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, dự trữ hiện tại khoảng 2 ngàn tỷ đô la Mỹ, chiếm 30% của thế giới. Cuối năm 2008, 10 quốc gia có dự trữ ngoại hối lớn nhất là những nước có nền kinh tế đang phát triển, ngoại trừ Nhật Bản. Chín nước có nền kinh tế đang phát triển, bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Cộng Hòa Liên Bang Nga, Đài Loan, nắm giữ 50% dự trữ ngoại hối của thế giới. Trước tình hình này, có lập luận cho rằng nguyên nhân chính khiến cho dự trữ ngoại hối gia tăng nhanh chóng là để ổn định tỷ giá hối đoái. Theo quan điểm khác, nền kinh tế tích lũy ngoại hối lớn để nhằm phối hợp được 3 mục tiêu giữa tỷ giá cố định, chính sách tiền tệ độc lập, và hội nhập tài chính. Ví dụ, một quốc gia theo đuổi một tỷ giá hối đoái cố định và chính sách tiền tệ độc lập có thể cố gắng tự do hóa các giao dịch tài chính xuyên biên giới trong khi quyết định không từ bỏ mức độ tỷ giá hối đoái cố định và chính sách tiền tệ độc lập hiện tại. Đây là một sự phối hợp chính sách, tuy nhiên, có thể thúc đẩy các cơ quan tiền tệ để giữ một lượng lớn dự trữ ngoại hối để các nước có thể giữ cố định tỷ giá trong khi duy trì chính sách tiền tệ độc lập. Hoặc, nếu một nền kinh tế với hội nhập tài chính và tỷ giá cố định đối mặt với nhu cầu cần một chính sách tiền tệ độc lập, có thể có khả năng thực hiện, mặc dù là tạm thời, miễn là nước đó nắm giữ một lượng lớn ngoại hối. Như vậy, rõ ràng là người ta không thể thảo luận về vấn đề của bộ ba bất khả thi mà không kết hợp với vai trò của việc nắm giữ ngoại hối. Biểu đồ kim cương trong Hình 5 được sử dụng để theo dõi các mô hình thay đổi của cấu trúc bộ ba bất khả thi kết hợp với nắm giữ ngoại hối. Cấu trúc của mỗi nước ngay lập tức đã được tóm tắt bằng một mô hình kim cương tổng quát, có bốn đỉnh đo lường độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP, và hội nhập tài chính. Nguồn gốc được chuẩn hóa đại diện không độc lập tiền tệ, thả nổi tỷ giá, không dự trữ ngoại hối và độc lập tài chính. Hình 5 tổng kết khuynh hướng của các nước công nghiệp hóa, các nước Châu Á đang nổi, các nước Châu Á có nền kinh tế mới nổi đang phát triển, các nước không phái Châu Á đang phát triển, các nước Châu Mỹ La Tinh có nền kinh tế đang nổi. Biểu đồ kim cương trong Hình 5 được sử dụng để theo dõi các mô hình thay đổi của Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 10/28 cấu trúc bộ ba bất khả thi kết hợp với nắm giữ ngoại hối. Cấu trúc của mỗi nước ngay lập tức đã được tóm tắt bằng một mô hình kim cương tổng quát, có bốn đỉnh đo lường độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP, và hội nhập tài chính. Nguồn gốc được chuẩn hóa đại diện không độc lập tiền tệ, thả nổi tỷ giá, không dự trữ ngoại hối và độc lập tài chính. Hình 5 tổng kết khuynh hướng của các nước công nghiệp hóa, các nước Châu Á đang nổi, các nước Châu Á có nền kinh tế mới nổi đang phát triển, các nước không phái Châu Á đang phát triển, các nước Châu Mỹ La Tinh có nền kinh tế đang nổi. Trong hình 5 chúng ta có thể quan sát một lần nữa sự khác nhau của các cấu trúc bộ ba chính sách cho các nền kinh tế công nghiệp - một động thái hướng tới hội nhập tài chính ngày càng sâu rộng, tỷ giá hối đoái ổn định hơn, và độc lập tiền tệ yếu hơn trong những năm qua. Tuy nhiên, nhóm nước này đã làm giảm mức độ dự trữ ngoại hối trong nhiều năm qua không giống như các nhóm nước khác. Mỗi khi chúng ta dịch chuyển sự chú ý đến việc so sánh cấu hình bộ ba chính sách, Châu Á, đặc biệt là những nước có nền kinh tế thị trường mới nổi, xuất hiện sự khác nhau so với các nhóm nền kinh tế khác. Biểu đồ kim cương của các nước Châu Á có nền kinh tế mới nổi cho thấy sự hội tụ ở giữa được quan sát cho nhóm nền kinh tế mới nổi nói chung ở hình 3, là bằng chứng khá hiển nhiên cho nhóm các nền kinh tế này. Đây không phải là một hiện tượng gần đây cho các nước có nền kinh tế mới nổi ở Châu Á. Kể từ đầu những năm của thập niên 1980, ba chỉ số này được quần tụ trong phạm vi ở giữa, mặc dù tỷ giá hối đoái cố định là sự lựa chọn chính sách phổ biến nhất và mức độ độc lập tiền tệ đang giảm dần. Đặc điểm này không xuất hiện cho nhóm các nước có nền kinh tế đang phát triển, mặc dù các nước đó là thuộc Châu Á hay không. Mặt khác, nền kinh tế thị trường mới nổi Châu Mỹ La Tinh đã trải qua một phần phát triển khác biệt đặc trưng so với các nước Châu Á. Quan trọng nhất, nhóm các nước Châu Á có nền kinh tế mới nổi khác xa so với các nước khác về độ lớn và tốc độ gia tăng dự trữ ngoại hối, điều này có thể tạo ra một sự nghi ngờ ý nghĩa của dự trữ ngoại hối lên bộ ba chính sách bất khả thi và hoạt động kinh tế vĩ mô. 2/ PHÂN TÍCH HỒI QUY Mặc dù việc mô tả đặc điểm về các chỉ số bộ ba bất khả thi ở trên cho phép chúng tôi quan sát sự phát triển của việc định hướng chính sách giữa các nền kinh tế, thì nó vẫn thất bại để xác định những động lực của các nền kinh tế cho những thay đổi chính sách. Vì thế, chúng Nhóm 6 – Tài chính quốc tế Trang 11/28 tôi nghiên cứu về phương diện kinh tế làm thế nào những chọn lựa đa dạng liên quan đến bộ ba chính sách tác động lên những mục đích cuối cùng của chính sách v
Luận văn liên quan