Năm 2008, nền kinh tế Thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng mở đầu bằng cuộc khủng hoảng cho vay tín dụng nhà đất ở Mỹ. Để cứu vãn tình hình, chính phủ Mỹ đã thông qua hai gói kích cầu trị giá 150 tỉ USD và 700 tỉ USD. Tiếp sau Mỹ là các nước châu Âu, Nhật Bản cũng rơi vào khủng hoảng. Cũng tương tự như Mỹ EU cũng đưa ra gói kích cầu trị giá 200 tỉ Euro, Nhật đưa ra gói kích cầu trị giá 255 tỉ USD. Theo nhận định của một số học giả kinh tế thì cuộc khủng hoảng kinh tế này xó thể sẽ không ảnh hưởng đến các nước đang phát triển, và là cơ hội tốt để Trung Quốc vượt mặt các đối thủ khác. Tuy nhiên thực tế trái ngược hoàn toàn, động lực kinh tế chính của Trung Quốc là xuất khẩu bị sụt giảm nghiêm trọng, kéo theo sự sụt giảm của sản xuất, làm cho kinh tế nước này có nguy cơ rơi vào suy thoái. Cũng như Trung Quốc, Việt Nam cũng phụ thuộc nhiều vào cầu hàng hóa của Mỹ đối với hàng hóa của mình. Trước tình hình ấy Việt Nam khó có thể tránh khỏi những tác động xấu, làm suy sụp nền kinh tế trong nước.
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8547 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tác động của hai gói kích cầu đến nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
CHỦ ĐỀ 7
TÁC ĐỘNG CỦA HAI GÓI KÍCH CẦU ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN: TS. HAY SINH
LỚP 78 – K35 – GIẢNG ĐƯỜNG B215
NGUYỄN THỊ DUYÊN THƠ (nhóm trưởng)
VŨ KHẮC TRỌNG
PHAN THỊ TUYẾT
LÊ HUYỀN BẢO TRÂN
NGUYỄN THỊ THÙY DUNG
TRẦN LỆ BẢO TRÂM
ĐẶNG LÊ VIỆT TRINH
BÙI THANH LỊCH
TRẦN ĐỨC SƠN
LƯƠNG HOÀNG KIM
MỤC LỤC:
TỔNG QUAN KINH TẾ 4
Kinh tế thế giới 4
Tình hình kinh tế Việt Nam 4
Các nguyên tắc sử dụng gói kích cầu 9
GÓI KÍCH CẦU LẦN 1 12
Bù đắp lãi suất 4% cho doanh nghiệp 13
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp 15
Hỗ trợ người nghèo ăn tết và kích cầu tiêu dùng 19
Tác động
GÓI KÍCH CẦU LẦN 2 19
1.Gói kích cầu lần 2 có thật sự cần thiết 24
2.Nội dung của gói kích cầu lần 2 25
3.Kết quả kinh tế 6 tháng đầu năm 2010 .27
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 29
TỔNG QUAN KINH TẾ:
1. Kinh tế thế giới:
Năm 2008, nền kinh tế Thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng mở đầu bằng cuộc khủng hoảng cho vay tín dụng nhà đất ở Mỹ. Để cứu vãn tình hình, chính phủ Mỹ đã thông qua hai gói kích cầu trị giá 150 tỉ USD và 700 tỉ USD. Tiếp sau Mỹ là các nước châu Âu, Nhật Bản cũng rơi vào khủng hoảng. Cũng tương tự như Mỹ EU cũng đưa ra gói kích cầu trị giá 200 tỉ Euro, Nhật đưa ra gói kích cầu trị giá 255 tỉ USD. Theo nhận định của một số học giả kinh tế thì cuộc khủng hoảng kinh tế này xó thể sẽ không ảnh hưởng đến các nước đang phát triển, và là cơ hội tốt để Trung Quốc vượt mặt các đối thủ khác. Tuy nhiên thực tế trái ngược hoàn toàn, động lực kinh tế chính của Trung Quốc là xuất khẩu bị sụt giảm nghiêm trọng, kéo theo sự sụt giảm của sản xuất, làm cho kinh tế nước này có nguy cơ rơi vào suy thoái. Cũng như Trung Quốc, Việt Nam cũng phụ thuộc nhiều vào cầu hàng hóa của Mỹ đối với hàng hóa của mình. Trước tình hình ấy Việt Nam khó có thể tránh khỏi những tác động xấu, làm suy sụp nền kinh tế trong nước.
2. Tình hình việt nam:
Để dự báo sự ảnh hưởng này, trước hết chúng ta xét đẳng thức:
Y = C + I +G + (X-M)
Trong đó
Y: tổng cầu của nền kinh tế
C: tiêu dùng của hộ gia đình I: đầu tư của khu vực tư nhân G: chi tiêu của chính phủ X: xuất khẩu M: nhập khẩu
(X-M): thâm hụt hoặc thặng dư thương mại.
Qua đó ta thấy kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế trong nước qua các kênh sau:
Suy giảm đầu tư nước ngoài ( I giảm)
Suy giảm cầu đối với đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam , bao gồm cả xuất khẩu tại chỗ ( chẳng hạn du lịch) làm giảm X, giảm tổng cầu.
Giảm nhập khẩu đầu vào cho xuất khẩu làm tăng tổng cầu, qua đó làm tăng tổng cầu.
Tuy nhiên mức độ thâm dụng lao động của xuất khẩu của Việt Nam cao hơn so với nhập khẩu, nên suy giảm kinh tế thông qua kênh đầu tư nước ngoài có tác động giảm việc làm và qua đó giảm thu nhập. Giảm thu nhập sẽ làm cho tiêu dùng của hộ gia đình thấp đi, và đầu tư của khu vực tư nhân cũng giảm . Qua đó tổng cầu sụt giảm hơn nữa. Sự sụt giảm này còn bị khuếch đại bởi yếu tố tâm lí trong bối cảnh các doanh nghiệp và người dân cảm thấy rủi ro ngày một tăng ở cấp độ toàn cầu, dẫn đến sự điều chỉnh tiêu dùng và đầu tư một cách thái quá, không phù hợp với mức điều chỉnh tối ưu. Điều này đòi hỏi sự can thiệp của Chính phủ để khôi phục lại các hành vi kinh tế ở mức tối ưu, với nguyên tắc chung là có các biện pháp kích khi thị trường quá sợ hãi và kìm hãm khi thị trường quá hưng phấn.
Do đó, khó có một nước nào có thể đứng ngoài lề một cuộc khủng hoảng như vậy. Đối với Việt Nam, là một nền kinh tế mở phụ thuộc nhiều vào các nền kinh tế khác, tỉ lệ xuất khẩu của nước ta tính trên GDP lên đến 70%, và sự tăng trưởng của Việt Nam trong nhiều năm qua phụ thuộc nhiều vào dòng vốn đầu tư từ nước ngoài , nên có thể kết luận rằng Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới.
Những dấu hiệu đáng ngại của sự sụt giảm thể hiện rõ trong những tháng cuối năm 2008, đầu năm 2009, đặc biệt qua kênh xuất khẩu. Theo báo cáo Chính phủ ngày 18/12/2008, kim ngạch xuất khẩu những tháng cuối năm 2008 đã biểu hiện sự sụt giảm rõ nét. Kim ngạch tháng 10 giảm 3,3% so với tháng 9, và tháng 11 giảm 4,8% so với tháng 10. Kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam 1/2009 đã sụt giảm nghiêm trọng theo đà giảm của những tháng cuối năm 2008. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 1/2009 ước chỉ đạt 3,8 tỷ USD, giảm 16,8% so với 12/2008 và giảm 24,2 so với cùng kì năm trước. So với cùng kì năm 2008, hầu hết các mặt hàng đều cho thấy có sự giảm sút kim ngạch trong tháng 1/2009.
Sự sụt giảm này vừa do giá hàng xuất khẩu giảm, vừa do nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa của Việt Nam tại các thị trường chủ lực giảm. Mặc dù Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách để giữ không cho đồng Việt Nam lên giá, và làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khảu của Việt Nam. Một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam sẽ bị biến động nhiều khi nền kinh tế thế giới suy thoái. Một ngành công nghiệp XK mới nổi của Việt Nam là ngành du lịch cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, buộc ngành du lịch phải giảm giá phòng và giá dịch vụ hàng loạt. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Đối với kênh đầu tư nước ngoài, mặc dù các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có những đánh giá lạc quan vào nền kinh tế của Việt Nam, song cơ hội để chúng ta có thể thu hút được vốn FID là rất khó khăn. Theo Bộ Kế hoạch và đầu tư thì kế hoạch thu hút vốn FDI trong năm 2009 chỉ là 30 tỉ USD, thấp hơn nhiều so với năm 2008. Nhưng trên thực tế thì tình hình thu hút vốn FDI dường như khó khăn hơn, và con số 30 tỉ USD cũng chưa thể đạt được.
Rõ ràng là từ cuối năm 2008 đầu năm 2009, Việt Nam đã phải chịu những tác động của cuộc suy thoái kinh tế, mà cụ thể là trong nước sản xuất đình đốn, đầu tư tăng thấp, tiêu dùng có dấu hiệu châm lại, dẫn đến sự dư thừa đáng kể năng lực sản xuất, trong đó đặc biệt là dư thừa lao động. Hiện nay tình trạng mất việc làm ở Việt Nam tăng nhanh, do lĩnh vực sản xuất sử dụng nhiều lao động như dệt may, dày da, thủy sản, mỹ nghệ và tiểu thủ công nghiệp bị cắt giảm mạnh đơn hàng. Đó là dấu hiệu cho thấy, tình trạng thiếu việc làm đang tiến gần đến ngưỡng nhạy cảm có thể đấy sự suy giảm kinh tế vào tình trạng nguy kịch. Điều này cho thấy cần phải có những hành động, chính sách nhanh và phù hợp.
Trong tình hình đó, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm thực hiện nhiệm vụ ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Một trong những biện pháp đó là sử dụng gói kích cầu. Biện pháp trên đã có tác động tích cực đối với nền kinh tế đất nước. “ Liệu pháp kích cầu” về bản chất là việc Nhà nước chủ động tác động tích cực tới tổng cung và tổng cầu xã hội một cách thống nhất, có tổ chức và có mục đích, theo khuynh hướng khuyến khích đầu tư và mở rộng quy mô tiêu dùng; kích hoạt và tăng động lực phát triển kinh tế trong bối cảnh có sự suy giảm các động lực kinh tế do các khó khăn về nguồn vốn và thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp, nhất là khu vực kinh tế tư nhân.
Cha đẻ của biện pháp kích cầu kinh tế có một câu nói nổi tiếng về mức độ ảnh hưởng của chính sách này: “chỉ cần Chính phủ chôn tiền xuống đất rồi chỉ người dân đến đó đào lên cũng đủ làm cho nền kinh tế tăng trưởng”.Dĩ nhiên đây chỉ là một cách nói quá của Keynes, nhưng quả thật đấy cũng là một cách kích cầu kinh tế nếu đơn giản chỉ nhằm mục tiêu việc làm và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.
Câu nói trên được lí giải như sau: Khi người dân đào được tiền, họ sẽ dùng tiền ấy mua các loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chẳng hạn như bánh mì, quần áo, giày dép,… Điều này làm cho cầu về hàng hóa tăng lên, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, làm kinh tế tăng trưởng trong ngắn hạn. Tuy nhiên việc đào đất lấy tiền không làm tăng của cải cho xã hội mà chỉ làm tăng cầu về hàng hóa. Do vậy, nền kinh tế sẽ rơi tiếp vào vòng xoáy lạm phát. Nền kinh tế lại rơi vào khủng hoảng khi người dân không đủ tiền mua hàng hóa, vòng xoáy khủng hoảng sẽ tiếp tục ở mức sau cao hơn mức trước. Như vậy thay vì chôn tiền xuống đất, chính phủ sẽ thực hiện một dự án nông nghiệp trả tiền cho người dân tham gia vào cày cuốc, vỡ hoang ruộng đất để trồng cấy hoa màu. Điều này trong ngắn hạn vừa kích thích kinh tế, vừa làm tăng tổng cầu, đồng thời cũng làm tăng năng lực sản xuất, tăng lượng cung ứng hàng hóa ra ngoài thị trường, sẽ góp phần giải quyết khó khăn của nền kinh tế ổn thỏa hơn nhiều so với cách chôn tiền.
Các gói kích cầu không chỉ có ở các nền kinh tế phát triển như Mỹ, EU, Australia, … mà còn xuất hiện ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Đài Loan…
Ngày 2/12/2008 trong cuộc họp báo Chính phủ thường kì Chính Phủ Việt Nam đã thông qua kế hoạch dành khoảng 1 tỉ USD để kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước. Gói kích cầu thứ nhất trị giá 17.000 tỉ đồng đã giải ngân nhanh chóng để kịp thời ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của đại suy thoái đến tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
Gói kích cầu kinh tế thứ hai cũng được Chính phủ thông qua sau khi nhận được đa số ý kiến tán đồng của các thành viên vào 30/10/2009.
Vậy dựa vào đâu mà Chính phủ các nước đưa ra các gói kích cầu kinh tế? Và cần tuân thủ những nguyên tắc nào?
Theo lí thuyết kinh tế, khi nền kinh tế gặp khó khăn, phát triển quá nóng hoặc suy thoái, thì hai công cụ chính mà chính phủ dựa vào là:
Chính sách tiền tệ - tăng giảm lãi xuất và một số biện pháp khác để điều chỉnh cung tiền trong nền kinh tế
Chính sách tài khóa – chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ, chẳng hạn các gói kích cầu.
Trong kinh tế học, gói kích cầu thường được hiểu là việc sử dụng chính sách tài khóa ( miễn giảm thuế, tăng chi tiêu của chính phủ) để hỗ trợ nền kinh tế trong cơn suy thoái. Mục tiêu của các gói kích cầu thông qua chính sách tài khóa là nhằm tăng cường hoạt động của nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái bằng việc tăng tổng cầu trong ngắn hạn. Ý tưởng của gói kích cầu là kh tăng chi tiêu sẽ hạn chế đượ khả năng tổng cầu sụt giảm hơn nữa gây đổ vỡ nền kinh tế. Trong giai đoạn kinh tế suy yếu, vấn đề cơ bản của nền kinh tế là thiếu hụt cầu, chứ không phải là thiếu năng lực sản xuất. Trong các điều kiện bình thường thì chính phủ nên có các biện pháp giúp tăng trưởng dài hạn thông qua nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Tuy nhiên khi suy thoái thì mục tiêu của gói kích cầu là tạo thêm cầu để đối ứng với năng lực sản xuất hiện tại của nền kinh tế, tránh để dư thừa năng lực sản xuất ở mức quá cao gây lãng phí nguồn lực cũng như gây ra những vấn đề xã hội do nạn thất nghiệp tăng cao. Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ tiến đến ngưỡng nguy hiểm đẩy uy giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: thất nghiệp sẽ dẫn đến cắt giảm thu nhập do đó làm giảm tiêu dùng, càng làm khó khăn về đầu ra dẫn đến các doanh nghiệp phải tiếp tục cắt giảm sản xuất và lao động, đẩy thất nghiệp lên ở vòng tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy. Do vậy, mục đích lớn nhất của gói kích cầu là duy trì việc làm.
Các nền kinh tế khác nhau có thể thiết kế các gói kích cầu kinh tế khác nhau. Đối với các nước như Mỹ và EU, thì gói kích cầu được hiểu là gói kích thích kinh tế, sử dụng các biện pháp tài khóa ( bao gồm tăng chi tiêu của chính phủ và cắt giảm thuế) – Điều này là do thông thường, khi nền kinh tế gặp khó khăn, thì các nước này thường sử dụng chính sách kinh tế là chính sách tiền tệ ( điều chỉnh lãi suất cho vay, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở), và chỉ cân nhắc sử dụng chính sách tài khóa khi dường như chính sách tiền tệ dường như không còn tác dụng, hoặc không thể thực hiện được ( ví dụ như khi lãi suất đã giảm xuống rất thấp). Trong trường hợp của Việt Nam, Chính phủ kết hợp cả hai chin sách tiền tệ và tài khóa. Nhưng cho dù một chính sách kích cầu được kết hợp hay thiết kế theo kiểu nào đi nữa thì một gói kích cầu muốn có hiệu quả phải tuân thủ ít nhất 3 tiêu chí, đó là: kịp thời, đúng đối tượng và ngắn hạn hay nhất thời. Riêng đối vơi nước ta, một nền kinh tế có độ mở cao với tỉ trọng nhập khẩu chiếm gần 90% GDP, cần có thêm tiêu chí thứ 4 là ít rò rỉ ra hàng ngoại nhập.
3. Nguyên tắc sử dụng gói kích cầu:
Nguyên tắc 1 – Kích cầu phải kịp thời:
Kích cầu phải kịp thời ở đây không phải chỉ là việc kích cầu phải được chính phủ thực hiện một cách nhanh chóng khi xuất hiện nguy cơ suy thoái, mà kịp thời còn có nghĩa là một khi chính phủ thực hiện thì những biện pháp này sẽ có hiệu ứng kích thích ngay, tức là làm tăng chi tiêu ngay trong nền kinh tế. Do đó, việc kích cầu chỉ có thể thực hiện được một cách có ý nghĩa trong một khoảng thời gian nhất định. Các chính sách quá mất thời gian có thể không có tác dụng, vì khi đó nền kinh tế tự nó đã có khả năng phục hồi, và việc sử dụng gói kích cầu lúc đó có thể gây ra hậu quả xấu do có khả năng làm hun nóng nền kinh tế, dẫn đến lạm phát và mất cân đối vĩ mô.
Các chương trình đầu tư, dự án có tốc độ giải ngân chậm không phải là những công cụ kích cầu tốt. Điều này bởi vì là khi tổng cầu sụt giảm, thì các biện pháp này lại không có tác động gì tới tổng cầu trong lúc phải làm tăng nó lên nhiều nhất ( để tránh các tác động tiêu cực của suy thoái như việc sa thải công nhân). Đến khi các chương trình này phát huy tác dụng thì có thể phản tác dụng, làm cho nền kinh tế lạm phát nặng nề.
Nguyên tắc 2 – Kích cầu phải đúng đối tượng:
Gói kích cầu có thành công hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào xu hướn chi tiêu và đầu tư của các đối tượng nằm trong gói kích cầu. Để kích thích được cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, thì gói kích cầu phải được nhắm đến đối tượng sao cho gói kích cầu được sử dụng ngay ( chi tiêu ngay) và qua đó, làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế. Những biện pháp kích cầu đúng đối tượng là những biện pháp nhắm đến các đối tượng sẽ chi tiêu toàn bộ lượng kích cầu dành cho họ. Mục tiêu của gói kích cầu là làm tăng cầu, nên chìa khóa để thực hiện điều này là cấp tiền cho những người ( có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và chin quyền) – sẽ sử dụng những đồng tiền này và qua đó đưa thêm tiền vào nền kinh tế. Tiền kích cầu phải được sử dụng để khuyến khích các nhóm đối tượng này tiến hành các khoản chi tiêu mới, hoặc hạn chế các nhóm này cắt giảm chi tiêu.
Để việc kích cầu có hiệu quả thì gói kích cầu phải nhắm vào những đối tượng sao cho một đồng tiền chi ra có hiệu ứng kích thích tiêu dùng và đầu tư cao nhất. Theo một số nghiên cứu trên thế giới là hiệu ứng cao nhất dành cho bảo hiểm thất nghiệp. Các nhóm khác nhau trong xã hội sẽ có xu hướng tiêu dùng biên khác nhau. Những người có khoản thu nhập cao sẽ chỉ dùng một phần nhỏ khoản hoàn/miễn thuế ( hoặc khoản tiền trợ cấp) mà họ nhận được sẽ được chi tiêu, trong khi những người có thu nhập thấp và vừa, sẽ có nhu cầu chi tiêu cao hơn tính trên khoản hoàn thuế. Số nhân tổng cầu của nền kinh tế giải thích tại sao các chính sách kích cầu nhắm vào các đối tượng khác nhau lại mang đến những kết quả không giống nhau. Như vậy mức độ thành công của một gói kích cầu đến đâu là phụ thuộc vào đối tượng mà gói kích cầu kinh tế hướng đến. Mức độ “đúng đối tượng” của gói kích cầu chính phủ phụ thuộc vào:
Mức độ chi tiêu của đối tượng nhận được thu nhập nhờ có gói kích cầu thông qua tác động của số nhân tổng cầu.
Mức độ rò rỉ ra hàng ngoại nhập của các chi tiêu ( vì sẽ làm tăng M trong đẳng thức tính tổng cầu Y của nền kinh tế).
Nhìn chung, những người có mức thu nhập thấp thường có mức tiêu dùng cao (tức là mức tiết kiệm thấp) trên 1 đồng thu nhập có thêm được và lại thường tiêu dùng hàng nội. Do vậy nếu kích cầu đúng nhóm đối tượng này, sẽ đạt được đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và công bằng, khác với sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà ta thườn gặp trong kinh tế.
Nguyên tắc 3 - Kích cầu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn:
Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế được cải thiện. Khi thực hiện các biện pháp kích cầu phải đảm bảo rằng các biện pháp giảm thuế tăng chi tiêu của chính phủ đều chỉ có tính tạm thời và sẽ chấm dứt khi nền kinh tế vượt qua suy thoái. Và thông thường, sau khi vượt qua suy thoái, chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp để hạn chế và cắt giảm thâm hụt ngân sách. Nguyên tắc ngắn hạn có 2 ý nghĩa:
Ngắn hạn làm tăng hiệu quả của gói kích cầu:
Những chính sách vẫn còn hiệu lực khi nền kinh tế phục hồi, ví dụ như chính sách cắt giảm thuế cố định là những biện pháp kích cầu kém hiệu quả, vì những biện pháp kích thích này sẽ trở thành những khoản chi phí của chính phủ hoặc khoản thất thu khi thời gian kích cầu đã kết thúc. Hon thế nữa các biện pháp tín dụng như đầu tư, hoặc ưu đãi khấu hao tài sản sẽ là những biện pháp kích cầu hiệu quả hơn khi được thực hiện. Điều này là do các biện pháp nếu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ đầu tư để tận dụng ưu đãi. Những biện pháp dài hạn như cắt giảm thuế quá lâu sẽ không phải là những biện pháp kích cầu tốt, bởi sẽ tạo cho các doanh nghiệp tín ỷ lại.
Ngắn hạn để bảo đảm không làm ảnh hưởng đến ngân sách trong dài hạn:
Thông thường khi thực hiện các biện pháp kích thích nên kinh tế bằng việc mở rộng chi tiêu tạm thời của chin phủ sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách. Do đó một nguyên tắc vô cùng quan trọng là các chính sách trong ngắn hạn không có tác động xấu đến nền kinh tế trong dài hạn, hoặc gây ra khó khăn cho ngân sách trong dài hạn. Việc bảo đảm rằng trong dài hạn, tình hình kinh tế không kém đi cũng là yếu tố quan trọng để gói kích cầu đạt hiệu quả hơn. Thâm hụt ngân sách lớn trong tương lai cũng có nghĩa là tiết kiệm trong dài hạn giảm đi, dẫn đến đầu tư giảm và ảnh hưởng đến tăng trưởng. Đó là chưa kể đến việc thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng đến tài khoản vãng lai và lạm phát.
Khi cân nhắc xem xét các biện pháp kích cầu cụ thể của gói kích cầu, thì cả ba nguyên tắc trên phải được tuân thủ và xem xét một cách đồng thời. Nếu một biện pháp kích cầu mà vi phạm một trong ba nguyên tắc trên thì đó không phải là một biện pháp kích cầu tốt. Để tăng hiệu quả kích cầu cần có các chính sách bổ trợ khác liên quan đến việc định giá đồng tiền trong nước so với ngoại tệ, sao cho tăng tính linh hoạt của tỉ giá, nhằm sử dụng công cụ này như van tự động điều chỉnh thâm hụt thương mại ở mức hợp lí và bền vững.
Đây là lần đầu tiên Chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách kích cầu kinh tế, do vậy rất cần sự xem xét và tuân thủ thận trọng các nguyên tắc trên, để có thể đề ra những chính sách, biện pháp đúng đắn nhằm đạt được mục tiêu chống suy thoái kinh tế. Thực hiện các gói kích cầu trong hoàn cảnh Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn nhất định sau:
Khó khăn:
Khác với nhiều nước khác cũng đang thực hiện kích cầu kinh tế có ngân sách nhà nước thặng dư, trong khi đó thâm hụt ngân sách và thương mại ở mức cao và kéo dài.
Lạm phát ở Việt Nam ở trong 2 năm vừa qua rất cao, gây bất lợi về tâm lí, mặc dù nguy cơ lạm phát trong năm 2009 là không cao.
Việc hoạch định chính sách nói chung và gói kích cầu nói riêng dược thực hiện trong một môi trường đầy biến động, sẽ gây ra những trở ngại lớn trong việc hoạch định chính sách.
Thuận lợi:
Nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng cung như bất động sản ở tất cả các phân khúc còn rất lớn, tạo thuận lợi cho đầu tư công.
Tỉ trọng đầu tư công của Việt Nam thuộc loại cao nhất trên thế giới, cùng với sự hiện diện của một số chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo đã được thực hiện khoảng 10 năm nay, cũng là điểm thuận lợi khi thưc hiện các nội dung về an sinh xã hội của gói kích cầu, đặc biệt là trong việc xác định các đối tượng kích cầu.
GÓI KÍCH CẦU LẦN MỘT:
Gói kích cầu kinh tế của Việt Nam được triển khai thành các phần sau:
Gói hỗ trợ lãi suất 4%.
Gói hỗ trợ tiêu dùng, bao gồm miễn thuế thu nhập cá nhân, và hỗ trợ người nghèo ăn tết.
Gói hỗ trợ đầu tư bao gồm miễn, giảm, dãn thuế doanh thu, thuế VAT cho các doanh nghiệp, và nông dân vay vốn không lãi suất để mua thiết bị, máy móc sản xuất công nghiệp.
Đầu tư công bao gồm xây dựng kết cấu hạ tầng, nhà ở cho sinh viên và k