Quản trị tài chính công chỉ mạnh khi các chính phủcó thể đưa ra các 
chính sách tài khoá một cách bền vững, và các chính sách này áp dụng hiệu quảvào 
việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụcông. Nghiên cứu này giới thiệu những vấn 
đềcủa chính sách tài khoá và những hiệu quảtiềm năng trong hoạt động kinh tếcủa 
chúng. Nghiên cứu cũng đào sâu các vai trò mang tính kinh tếvà những cách thức 
ngầm của việc vay nợtrong nước và nước ngoài. Nó tập trung vào phương pháp của 
chính sách tài khoá đểchỉra và đánh giá các tác động của chính sách thuếlinh hoạt 
và các yêu cầu của quản lýnợcông. Bài nghiên cứu cũng làm rõ giảthiết cơbản, 
nguyên tắc và ứng dụng của tài chính công bao gồm sựphân quyền và các mối quan 
hệtài chính liên chính phủtrong các nền kinh tế đang phát triển và chuyển tiếp của 
châu Phi
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1966 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tái cơ cấu chính sách tài khoá kích thích tăng trưởng kinh tế - Một trường hợp của các nước châu phi chọn lọc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận 
TÁI CƠ CẤU CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ KÍCH 
THÍCH TĂNG TRƯỞNG 
KINH TẾ - MỘT TRƯỜNG HỢP CỦA CÁC 
NƯỚC CHÂU PHI CHỌN LỌC 
Trang 1
TÁI CƠ CẤU CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ KÍCH THÍCH TĂNG TRƯỞNG 
KINH TẾ - MỘT TRƯỜNG HỢP CỦA CÁC NƯỚC CHÂU PHI CHỌN LỌC
Ravinder Rena (Poytechnic of Namibia, Namibia)
Ghirmai T. Kefela (DTAG INC., USA)
 Tóm tắt: Quản trị tài chính công chỉ mạnh khi các chính phủ có thể đưa ra các 
chính sách tài khoá một cách bền vững, và các chính sách này áp dụng hiệu quả vào 
việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công. Nghiên cứu này giới thiệu những vấn 
đề của chính sách tài khoá và những hiệu quả tiềm năng trong hoạt động kinh tế của 
chúng. Nghiên cứu cũng đào sâu các vai trò mang tính kinh tế và những cách thức 
ngầm của việc vay nợ trong nước và nước ngoài. Nó tập trung vào phương pháp của 
chính sách tài khoá để chỉ ra và đánh giá các tác động của chính sách thuế linh hoạt 
và các yêu cầu của quản lý nợ công. Bài nghiên cứu cũng làm rõ giả thiết cơ bản, 
nguyên tắc và ứng dụng của tài chính công bao gồm sự phân quyền và các mối quan 
hệ tài chính liên chính phủ trong các nền kinh tế đang phát triển và chuyển tiếp của 
châu Phi.
Giới thiệu
Bài nghiên cứu này giới thiệu các vấn đề chính của chính sách tài khoá và các hiệu 
quả ngầm trong hoạt động kinh tế. Hai công cụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô 
là chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Chính sách tài khoá là một công cụ mà 
một chính phủ điều chỉnh mức độ chi tiêu công để theo dõi và gây ảnh hưởng lên 
nền kinh tế của quốc gia (Rena, 2006). Đây là chính sách có quan hệ mật thiết với 
chính sách tiền tệ, là chính sách mà một Ngân hàng Trung Ương tác động tới cung 
tiền của một quốc gia. Hai chính sách này được kết hợp rất nhiều trong nỗ lực đưa 
nền kinh tế quốc gia đạt được các mục tiêu. Chính sách tài khoá là một công cụ 
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang 
mạnh để ổn định kinh tế, kiểm soát dựa trên số lượng và cơ cấu của thuế, chi tiêu 
công và quản lý nợ công. Chính sách tài khoá tác động đến tổng cầu, phân phối của 
cải và khả năng của nền kinh tế tạo ra hàng hoá và dịch vụ. Nợ tốt và quản trị tài 
chính được chấp nhận rộng rãi dưới hình thức các công cụ ổn định kinh tế vĩ mô. 
Nó đảm bảo cho việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực công và là một tiền đề cho 
tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra còn có một thoả thuận rộng rãi về những gì liên quan 
đến quản trị tài chính (Campos và Pradhan, 1996). Tuy nhiên, quản trị ngân sách và 
tài chính không thể hoàn toàn tách rời khỏi ảnh hưởng của chính trị. Thách thức là 
quản lý những cái chung giữa ngân sách và chính trị bằng cách thiết kế và thực hiện 
các khuôn khổ pháp lý, việc này sẽ nâng cao chất lượng sự tham gia của chính trị và 
thúc đẩy trách nhiệm tài chính. Bài nghiên cứu này tóm tắt nhiều cách tiếp cận khác 
nhau được sử dụng ở những quốc gia phát triển trong các đề xuất cải cách khu vực 
công của họ, và sẽ khám phá thể chế tương tự kiểm soát đến mức độ nào và các ưu 
đãi có thể được tạo lập trong các nền kinh tế mới nổi. Bài tập trung vào khuôn khổ 
"quản trị" hay "hiến pháp" chứ không phải quyết định "chính trị" đang diễn ra trong 
những khuôn khổ này (Schick, 1998). Chính phủ của các quốc gia phát triển nên 
thực hiện những bước tiến đáng kể để tăng cường cơ cấu tổ chức cho chính sách tài 
khoá. Chính sách tài khoá là một công cụ chỉ đạo kiên quyết trong việc duy trì tài 
chính công trong trung hạn, dựa trên các quy định khắt khe. Chính sách tài khoá này 
đi cùng với chính sách tiền tệ tạo nên nền tảng của sự ổn định cần thiết cho việc đạt 
được các mục tiêu của Chính phủ và các mức độ ổn định của việc làm (Rena, 2011). 
Mấu chốt của quản trị tài chính công thành công là một vấn đề của quản trị nhằm 
cân bằng nền kinh tế, quản lý, chính trị và tài chính công. Khi quản trị tài chính là 
không tốt thì ít có cơ hội thành công các mục tiêu chính sách tài khóa.
Quản trị tài chính công chỉ mạnh khi các chính phủ có thể đưa ra các chính sách tài 
khoá một cách bền vững, và các chính sách này áp dụng hiệu quả vào việc cung cấp 
các hàng hoá và dịch vụ công (Rena, 2011). Các ngoại tác của một sự quản trị 
Trang 3
doanh nghiệp tốt là các bộ luật, quy tắc và các tổ chức cung cấp một sân chơi lành 
mạnh và đưa vào kỷ luật hành vi của các thành phần tham gia, bất kể các nhà quản 
lý hay các cổ đông. Kinh nghiệm trong một nền kinh tế thị trường phát triển chỉ ra 
rằng chính sách cạnh tranh hợp pháp, quyền cổ đông hợp pháp, các hệ thống kế toán 
và kiểm toán, một hệ thống tài chính tốt, hệ thống phá sản và thị trường cho việc 
kiểm soát công ty là những tổ chức sẽ cung cấp các chỉ dẫn đúng đắn và đưa các 
công ty vào kỷ luật (Bird and Oldman, 1990).
Cách duy nhất để bảo đảm rằng những người nộp thuế nhận được giá trị thực cho số 
tiền mà họ đã bỏ ra là khi Chính phủ lập mục tiêu đầu tư và cải cách thuế dài hạn. 
Dịch vụ công tốt và đáng tin cậy rất quan trọng cho phát triển kinh tế, loại trừ tệ nạn 
xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đầu tư và cải cách thuế được đưa về nền 
tảng cho một nền kinh tế mạnh hơn, hiệu quả hơn (Shome, 2004; Rena, 2011). Trên 
thế giới, tất cả các nước có thể đối mặt với những thách thức trong việc điều chỉnh 
tài chính công, đặc biệt là để đáp ứng với những cú sốc không thể dự đoán, quản lý 
kinh tế yếu kém, hoặc những thay đổi cấu trúc dài hạn trong nền kinh tế. Điều chỉnh 
tài chính công được thực hiện thông qua sự kết hợp của các loại chi phí cần thiết 
dịch chuyển từ việc cung cấp hàng hoá ,dịch vụ và kế hoạch tập trung trực tiếp sang 
việc cung cấp chọn lọc hơn hoặc tài trợ hàng hoá, dịch vụ chất lượng tốt và bảo đảm 
phân phối công bằng (Bougrand, Loko và Mlachila, 2002). Các khoản ngân sách 
cần phải được điều chỉnh nhanh chóng để kịp thời với sự thay đổi của nền kinh tế, 
điều này cần một sự tái định hướng vai trò lớn của Chính phủ, và cần có một ảnh 
hưởng rộng đến nền kinh tế làm tăng huy động vốn thu nhập, và cải thiện phân bổ 
nguồn lực và năng suất, thường là thông qua cải cách thể chế và cơ cấu (Campos và 
Pradhan, 1996; FitzGerald, 2003). Trong trường hợp của Ghana năm 2001, “thu 
nhập thuế dưới mức 20% của tổng chi tiêu quốc nội. Lý do của sự sụt giảm này là vì 
sự tuân thủ của những người nộp thuế chưa hoàn hảo”, phát biểu của Bộ trưởng 
Osafo-Maafo. Do vậy, vì Chính phủ Ghana muốn dựa vào thu nhập thuế nhiều hơn 
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang 
theo thời gian, họ đã đưa ra chính sách cải cách thuế mạnh hơn để mở rộng thu nhập 
và tăng cường sự tuân thủ. Những chính sách như thế cần những lựa chọn chính trị 
khó khăn hơn và tiêu tốn nguồn lực để tăng cường hiệu quả quản lý thuế, vì nó đóng 
vai trò chính trong việc tăng cường thu nhập từ thuế (Thống đốc Ngân hàng Trung 
Ương Ghana, 2001).
Cải cách thuế của Ghana tạo thành công cụ chính sách quan trọng cần thiết để thúc 
đẩy tăng trưởng và giảm nghèo (Osei, 2006). Những thay đổi lớn của Ghana trong 
chính sách tài chính quản lý thuế đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện 
huy động nguồn thu của đất nước và tình hình tài chính tổng thể. Những yếu tố 
chính được đưa ra cho sự gia tăng doanh thu là việc mở rộng cơ sở thuế, cơ cấu 
thuế, và tái tổ chức quản lý thuế. Nếu quản lý thuế là để trở nên có hiệu quả ở các 
nước đang phát triển, sự kết hợp rất lớn của con người chất lượng và nguồn tài 
nguyên cần thiết để thực hiện như vai trò chuyên nghiệp của các tổ chức doanh thu 
(Fjeldstad, Odd-Helge, 2006; Rena, 2011). Việc thiết kế một tài chính trung hạn phù 
hợp là khuôn khổ thúc đẩy một sự phân phối bền vững các dịch vụ công tốt hơn và 
cơ sở hạ tầng trong khi duy trì một cam kết đáng tin cậy để sự thận trọng tài chính 
phải đối mặt với nhiều thách thức. Nhiệm vụ chính của quản lý tài chính trong các 
Bộ này có xu hướng hầu như phối hợp với phân bổ chi tiêu, kiểm soát của bộ phận 
ngân sách.
Tuy nhiên, như doanh thu, chính sách được thỏa hiệp và giám sát thực tế của hoạt 
động doanh thu trở nên thoải mái, dẫn đến quản lý không hiệu quả và mất doanh 
thu. Bougrand, Loko, và Mlachila (2002) nhận thấy rằng các khoản vay nước ngoài 
vẫn là cách hấp dẫn nhất để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, trong khi rủi ro giảm giá 
đáng kể và mức độ của lãi suất trong nước cao. Nói chung, thâm hụt dẫn đến một sự 
thay đổi trong tài sản thuần của chính phủ, và có thể được tài trợ bằng cách hạ thấp 
giá trị tài sản hoặc phát sinh nợ mới của cả trong và ngoài nước. Sự lựa chọn giữa 
Trang 5
vay nước ngoài và trong nước, phụ thuộc vào chi phí (lãi suất), cơ cấu kỳ hạn và rủi 
ro.
Một yếu tố quan trọng của cải cách hành chính là để di chuyển các bộ phận doanh 
thu hiện tại của Bộ Tài chính thành một cơ quan doanh thu bán tự trị được giám sát 
bởi một Hội đồng quản trị độc lập. Triết lý đằng sau động thái này chủ yếu là để ưu 
đãi cho các nhân viên để cải thiện hiệu suất của họ và do đó làm tăng doanh thu. Cải 
cách dường như thành công trong những năm đầu xuất hiện URA (Quản trị 
Doanh thu Uganda). Doanh thu báo cáo tăng mạnh - từ 7% GDP trong năm 1991 
lên khoảng 12 % trong năm 1997 (Fjeldstad 2003). Tham nhũng dường như cũng 
giảm. Trong thời gian này, nhiều nhà quan sát gọi URA như một mô hình cho các 
nước tiểu châu Phi khác (Kaweesa, 2004).
Câu hỏi nghiên cứu
1) Chính sách tài chính ổn định nền kinh tế và giảm nợ công như thế nào?
2) Huy động nguồn thu và cải cách thuế có ảnh hưởng đến chính sách tài 
khoá và loại bỏ tham nhũng?
3) Cải cách chính sách tài khoá như thế nào để tăng dòng vốn tư nhân cho 
châu Phi?
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này được dựa trên dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo của Ngân 
hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các báo cáo của Chính phủ các nước 
châu Phi. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng phân tích dữ liệu bằng các phương tiện 
của phương pháp mô tả và nội dung phân tích. Các nhà nghiên cứu cũng xem xét 
các tài liệu thích hợp trên các chủ đề đặc biệt trên khuôn khổ kinh tế vĩ mô. Bài viết 
đã được chia thành 5 phần. Phần đầu tiên là giới thiệu, câu hỏi nghiên cứu và 
phương pháp luận. Phần thứ hai dành cho việc đưa ra các nghiên cứu trước đó. Phần 
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang 
ba phân tích chính sách tài khoá thông qua thuế. Phần bốn giải quyết về các chính 
sách tài khoá và các vấn đề tăng trưởng kinh tế của các nước châu Phi được lựa 
chọn. Phần năm tóm tắt các kết quả và phần cuối cùng đưa ra những nhận xét và kết 
luận của nghiên cứu.
Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Những ảnh hưởng tài chính về tài trợ nợ trong và ngoài nước
Tài liệu này nêu bật những vấn đề quan trọng nợ trong nước và nước ngoài của 
chính phủ và cung cấp các gợi ý có thể. Một cổ phiếu nợ của Chính phủ không nên 
phát triển vượt quá điểm mà tỷ lệ nợ trên GDP là quá cao đối với các khoản thanh 
toán nợ được thực hiện (Rena, 2011). Tính bền vững tài chính phụ thuộc vào mức 
độ hiện tại của nợ (trong nước và nước ngoài), và sự sẵn sàng đánh thuế của Chính 
phủ và áp dụng các biện pháp tích cực là cần thiết để trả lãi nợ. Ở các nước đang 
phát triển của châu Phi như: Ghana, Uganda và Kenya với một cơ sở thuế hạn chế, 
ngân sách eo hẹp, và chi tiêu Chính phủ cao là một vấn đề nghiêm trọng và không 
nên đánh giá thấp. Nói chung, các nước đang phát triển dự kiến sẽ phải đối mặt với 
tình trạng khan hiếm vốn, sẽ có được một khoản vay nước ngoài để bổ sung tiết 
kiệm trong nước. Tỷ suất mà họ vay ở nước ngoài, mức độ "bền vững" của vay 
nước ngoài - phụ thuộc vào các liên kết giữa tiết kiệm trong và ngoài nước, đầu tư 
và tăng trưởng kinh tế. Bài học chính của "tăng trưởng với nợ vay" là một quốc gia 
cần vay nước ngoài càng lâu miễn là vốn do đó có được tạo ra một tỉ lệ lợi nhuận 
cao hơn so với chi phí của các khoản vay này (Terkper năm 1994; IMF, năm 2006; 
Rena, 2011). Trong trường hợp đó, các nước đi vay được nâng cao năng lực và mở 
rộng đầu ra với sự trợ giúp của tiết kiệm nước ngoài.
Một khi vị thế tài chính của Chính phủ không bền vững có thể dẫn đến chi phí của 
việc vay mượn và phân bổ tín dụng trở nên cao hơn, quá trình này tốn kém và khiến 
cho việc vay mượn từ nước ngoài để tài trợ vào đầu tư của Chính phủ trở nên ít hấp 
dẫn hơn. Các lý thuyết kinh tế thường ủng hộ quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp 
Trang 7
nước ngoài (FDI) có thể giúp làm dịu đi những áp lực đè nén trong chính sách công 
của các Chính phủ này bằng cách mang lại những nguồn vốn. Tuy nhiên, theo 
nghiên cứu, điều này là một trong số những lý do các nhà làm chính sách phải giảm 
thiểu những hạn chế của dòng vốn FDI đi vào và đưa ra được những ưu đãi đặc biệt 
cho nguồn vốn FDI.
Cho mãi đến gần đây, các thị trường vốn ở Ghana, Uganda, Nigeria and Kenya đã 
không thể cung cấp được sự hỗ trợ hiệu quả cho khu vực tư vì các nước này còn 
nhỏ bé, kém phát triển và hoạt động bị hạn chế. Sự tồn tại của thị trường chứng 
khoán ở một số những quốc gia này có thể tạo thêm những kênh mà thông qua đó, 
những tác động của chính sách công có thể truyền tải đến toàn bộ nền kinh tế (theo 
Dailami và Atkin năm 1990; Ademola năm 1997). Nghiên cứu này đã đề xuất một 
chiến dịch nhằm thúc đẩy đầu tư và giáo dục công chúng về thị trường tài chính. 
Trên thực tế, một thị trường vốn được tổ chức tốt là cốt yếu cho việc huy động vốn 
trong nước và vốn quốc tế. Ở tất các các quốc gia này, thị trường vốn vẫn chưa thể 
hiện được vai trò của nó trong việc huy động vốn, mặc dù nó có thể là nơi tạo 
nguồn vốn nếu được tổ chức tốt. Nếu chính phủ trông chờ vào việc tài trợ thâm hụt 
tài khoá bằng cách phát hành tiền quá mức, lạm phát sẽ gia tăng, đồng nội tệ mất 
giá và góp phần làm thất thoát vốn. Nghiên cứu của Dailami và Atkin năm 1990 mô 
tả việc cấp nguồn tài trợ cho sự hình thành nguồn vốn nội địa là yếu tố then chốt 
trong triển vọng về sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn ở các nước đang phát triển. 
Năm 2001, yếu tố mang tính quyết định đối với những khó khăn của kinh tế Ghana 
là khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn thu nhập với việc dịch vụ nợ là loại chi tiêu 
lớn duy nhất. Để đảo ngược những khó khăn của nền kinh tế, chính phủ đã giới 
thiệu những thước đo ngân sách khác nhau nhằm cắt giảm chi tiêu và tăng thu nhập. 
Chính phủ đã đóng băng tất cả chi tiêu, ngoại trừ lương thưởng, thù lao và những 
thứ có liên quan, để đạt được tình trạng tài chính và nghĩa vụ ngân sách tốt hơn, 
cũng như đưa ngân sách về trạng thái thực tế hơn. Chính phủ đã cải thiện tình hình 
tài chính cùng hệ thống ngân hàng với số tiền khoảng 551 tỷ USD sau nửa đầu 
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang 
tháng 5 năm 2003. Tuy nhiên, nợ công quốc nội đã tăng khoảng 3.9% trong quý đầu 
năm 2003 so với mức tăng 8.5% cùng kỳ năm 2002 (Dữ liệu cung cấp bởi Ngân 
hàng Trung ương Ghana năm 2003). 
Nếu tình trạng thâm hụt được tài trợ từ dự trữ ngoại tệ của quốc gia bằng cách vay 
mượn, tình trạng thâm hụt đó hiển nhiên là sẽ không bền vững. Điều này sẽ ít gây ra 
mối đe dọa đến khả năng thanh toán nếu được tài trợ bằng đầu tư vốn trực tiếp vì nó 
mang lại lợi thế về chuyển giao công nghệ, tạo công ăn việc làm và những kỹ năng 
trong quản lý điều hành. Một lựa chọn khác dành cho thâm hụt tài khoản vãng lai 
bền vững là một khoản vay dài hạn với lãi suất thấp, ở hầu hết các trường hợp điều 
này đã được minh chứng khá rõ, là câu trả lời phù hợp và khả dĩ đối với mối đe doạ 
về thâm hụt ngân sách của họ. Ngân hàng Trung ương Uganda, một ngân hàng đối 
mặt với những thách thức về cán cân thanh toán như thế, đã có những bước tiến 
nhất định và nhận được một bài học rằng nợ nhiều hơn sẽ dẫn đến việc phải thanh 
toán lãi ròng cao hơn, dần dần sẽ được tài trợ bằng thặng dư thương mại. Merwe 
nhận định sẽ là khôn ngoan khi trung hòa thặng dư tài khoản vãng lai dựa trên 
những sự cải thiện rõ rệt trong các giai đoạn mậu dịch bằng cách khuyến khích 
dòng vốn đầu tư ra nước ngoài khi gặp phải những khó khăn có thể phát sinh trong 
việc quản lý thanh khoản nội địa. Tình trạng thâm hụt tài khoản nặng nề của 
Uganda năm 2001 đã tiếp tục được tài trợ chủ yếu bằng những dòng vốn hỗ trợ từ 
nước ngoài cũng như mức độ ngày càng thấp của dòng vốn FDI (Merwe, 2002). 
Việc vay mượn nước ngoài là một lựa chọn khôn ngoan miễn là nguồn vốn đó tạo ra 
một tỷ suất lợi nhuận cao hơn chi phí của các khoản vay đó. Hầu hết ở các nước 
đang phát triển, nguồn lực nội địa không đủ khả năng hỗ trợ những nỗ lực phát triển 
đất nước. Tài trợ nước ngoài là cần thiết để bổ sung cho nguồn lực quốc nội và phải 
có một mức trần nhằm tránh gặp phải mức nợ quá cao và không bền vững. Năm 
2002, huy động nguồn lực bên ngoài của Nigeria đã dẫn đến việc tạo ra các gánh 
nặng nợ quá sức chịu đựng, chủ yếu là do tài chính và sử dụng các nguồn tài trợ 
không phù hợp (IMF 2005). Thách thức cơ bản mà Nigeria và hầu hết các quốc gia 
Trang 9
châu Phi phải đối mặt là sự không đồng nhất giữa nhu cầu tăng trưởng và nguồn lực 
ngày càng bị thu hẹp. Thông qua nghiên cứu và phát hiện của chúng tôi, một chiến 
lược huy động nguồn lực hiệu quả là điều có thể nhận thấy được (Ademola, 1997). 
Đối với trường hợp của Uganda sẽ không cần gì khác để đạt được nguồn thu cải 
thiện và sử dụng nó một cách hiệu quả. Mặc dù nhiều đề xuất được đưa ra cho 
Uganda và các nước đang phát triển khác liên tục gặp phải nhiều trở ngại trong việc 
hoà nhập thành một chính sách chính xác và đáng tin cậy (Fjeldstad, Odd-Helge, 
2006). Để khỏi phải vay nước ngoài, một quốc gia nên sống bằng chính nguồn lực 
của mình, và việc đảm bảo cho tình trạng tài khoản vãng lai phù hợp với các nguồn 
lực tài chính sẵn có là điều thiết yếu.
Vay nợ nước ngoài dựa trên nguồn lực nội địa
Chính phủ cũng có thể có các phương án khác theo nhận định của họ để ít nhất đạt 
được một vài mục tiêu mà công cụ nợ nội địa được thiết kế ra. Không có nhiều sự 
lựa chọn cho các nước đang phát triển hay các nền kinh tế mới nổi, nếu phải loại bỏ 
vay nợ nước ngoài, họ phải phát triển thị trường trái phiếu chính phủ trong nước. 
Nếu chính phủ vay nợ nước ngoài quá mức, lãi suất trong nước sẽ giảm sâu, và 
chính sách tài khóa sẽ trở nên vô hiệu (Montiel, và Reinhart, 1999). Điều này sẽ làm 
giảm sút các quỹ (luồng vốn chảy ra ngoài), đây là nguyên nhân làm tăng vay nợ 
nước ngoài để tăng nguồn dự trữ ngoại tệ tại Ngân hàng Trung ương. Nếu nợ nước 
ngoài vượt 20-25% theo tỷ lệ GDP, nó có thể phản tác dụng, theo tiêu chuẩn quốc 
tế yêu cầu tỷ lệ vay nợ nước ngoài 9% so với GDP (IMF năm 2006; Rena, 2011). 
Hơn nữa vay nợ nước ngoài sẽ là vấn đề ảnh hưởng đến tình hình tín dụng của đất 
nước đó, sẽ tăng trả nợ nước ngoài và phải chịu bất kỳ cú sốc nào của nền kinh tế.
Mục tiêu quan trọng vay nợ dài hạn là khắc phục vấn đề thuế bị bóp méo nhiều 
bằng cách huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế trong nước. Vay nợ nước ngoài 
hấp dẫn nếu tỷ lệ tiết kiệm thấp và tránh sự lấn át của việc sử dụng tiết kiệm trong 
nước có sẵn trong khu vực tư nhân. Như đánh giá ở phần trên, sự lựa chọn giữa vay 
nước ngoài và vay trong nước phụ thuộc vào chi phí (lãi suất), kỳ hạn và rủi ro. Vay 
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang 
nợ trong nước có thể được sử dụng để đạt mục tiêu chính sách tiền tệ. Điều này đặc 
biệt đúng ở các nước có thặng dư cán cân thanh toán, thặng dư từ nguồn viện trợ và 
xuất khẩu dầu. Trong trường hợp các luồng ngoại hối chảy vào làm tăng thanh 
khoản, có thể làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô và các Ngân Hàng Trung Ương 
thường xuyên đưa ra quyết định can thiệp bằng cách bán trái phiếu Chính phủ hoặc 
tín phiếu Ngân hàng Trung Ương để hạn chế áp lực lên lạm phát do thanh khoản 
cao (Dieterich, 2004). Dòng vốn ngoại hối được tiếp nhận ở những nước đang phát 
triển nhưng cũng tạo ra những thách thức cho các nhà hoạch định chính sách ở 
trong nước. Nhờ dòng vốn nước ngoài nên đầu tư không còn bị giới hạn bởi hạn chế 
nguồn vốn trong nước. Đặc biệt, các nền kinh tế quá độ có mức thu nhập thấp và 
giới hạn trung bình phạm vi tiết kiệm trong nước nhưng triển vọng cao về lợi nhuận 
đầu tư của dòng vốn vào. Dòng vốn đầu tư cho phép