Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên k ỷ mới với cuộc sống phồn vinh,
hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào
một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào
và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít
quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để
lại các dân tộc và những nhóm người còn ph ải sống trong nghèo khổ.
Theo báo cáo của Liên hợp quốc năm 1996, trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù nền
kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân
đầu người tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng gần 6 lần, từ 4.000 tỷ USD năm 1960 lên
23.000 tỷ USD năm 1994, nhưng hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trên th ế
giới đng ngày càng sâu thêm; thu nhập của 358 nhà tỷ phú trên hành tinh lớn hơn các
khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 tỷ người nghèo nhất, chiếm 45% dân số toàn thế
giới; chênh lệch về thu nhập giữa các nước côn nghiệp với các n ước đang phát triển đã
tăng 3 lần.
Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất hành tinh đã giảm
xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó phần thu nhập của nhóm 20% người
giàu nhất đã tăng lên đến 85%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980 có 200 triệu
người có thu nh ập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình
trạng trên. ở Mỹ, số của cải do 1% những người giàu nh ất nắm giữ đã tăng từ 20% lên
30% của cải quốc gia trong thời kỳ 1975-1990. ở các nước đang phát triển như
Goatêmala, Panama hoặc Braxin, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của
những người nghèo.
Một điều hiển nhiên nữa là, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quy ết được
nghèo đói và bất công. Nh ưng phải chăng đói nghèo và bất công là t ất y ếu trên con
đường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu là hoạch định chính sách ở mọi quốc gia.
27 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2978 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội những khía cạnh lý thuyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIỂU LUẬN
Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội
những khía cạnh lý thuyết
2
Lời Mở đầu
Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên kỷ mới với cuộc sống phồn vinh,
hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào
một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào
và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít
quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để
lại các dân tộc và những nhóm người còn phải sống trong nghèo khổ.
Theo báo cáo của Liên hợp quốc năm 1996, trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù nền
kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân
đầu người tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng gần 6 lần, từ 4.000 tỷ USD năm 1960 lên
23.000 tỷ USD năm 1994, nhưng hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trên thế
giới đng ngày càng sâu thêm; thu nhập của 358 nhà tỷ phú trên hành tinh lớn hơn các
khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 tỷ người nghèo nhất, chiếm 45% dân số toàn thế
giới; chênh lệch về thu nhập giữa các nước côn nghiệp với các nước đang phát triển đã
tăng 3 lần.
Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất hành tinh đã giảm
xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó phần thu nhập của nhóm 20% người
giàu nhất đã tăng lên đến 85%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980 có 200 triệu
người có thu nhập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình
trạng trên. ở Mỹ, số của cải do 1% những người giàu nhất nắm giữ đã tăng từ 20% lên
30% của cải quốc gia trong thời kỳ 1975-1990. ở các nước đang phát triển như
Goatêmala, Panama hoặc Braxin, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của
những người nghèo.
Một điều hiển nhiên nữa là, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quyết được
nghèo đói và bất công. Nhưng phải chăng đói nghèo và bất công là tất yếu trên con
đường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu là hoạch định chính sách ở mọi quốc gia.
Tuy nhiên, vì sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của thầy (cô) để em có thể
hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Vũ Ngọc Pha – giáo viên giảng dạy bộ môn Triết
học Mác - Lênin đã giúp đỡ, giảng giải rất nhiều để em có thể hoàn thành bài tiểu luận
này
3
Chương I
Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội
những khía cạnh lý thuyết
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các
dân tộc và của mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu kép này không dễ dàng,
và trong thực tiễn đã có nhiều bằng chứng về sự đối lập giữa tăng trưởng và công bằng.
Các chính sách dựa trên mục tiêu công bằng có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại, một chính sách chỉ nhằm vào tăng trưởng có thể làm cho bất
bình đẳng tăng lên. Vậy thế nào là mối quan hệ hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng?
Chương này bàn về những quan điểm lý thuyết chủ yếu về chủ đề này.
I. Tăng trưởng và công bằng: Khái niệm, thước đo
Trong các tài liệu kinh tế hiện nay, không ít các chương trình nghiên cứu về chủ
đề này. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh té và công bằng xã hội được lý giải hoặc là
dựa trên sự đối lập giữa hai phạm trù này, hoặc dựa trên sự thống nhất và tương hỗ căn
bản giữa chúng. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thiên về tìm đến sự thống nhất giữa
tăng trưởng và công bằng. Tuy nhiên, trong khi luận giải, có không ít sự nhầm lẫn giữa
các phạm trù và chưa vạch ra được cơ chế đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng và
công bằng. Sau đây, sẽ là kiến giải thế nào là sự thống nhất giữa tăng trưởng và công
bằng xã hội, cơ chế nào đảm bảo cho những tương tác giữa tăng trưởng và công bằng.
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế học
là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Tăng trưởng kinh tế theo
nghĩa này thường được đo lường bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo
thời gian hoặc tăng thu nhập theo đầu người. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế chỉ thể
hiện mặt lượng của nền kinh tế qua thời gian.
Tuy nhiên, khi xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
khái niệm tăng trưởng kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Walter Rostow đã dùng
khái niệm tăng trưởng để đưa ra một lý thuyết tổng quát về phát triển. Ông chia quá trình
phát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tăng trưởng từ xã hội truyền thống
đến xã hội hiện đại. Quan niệm này rõ ràng nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của quá trình
phát triển, hay nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển.
Và cũng chính vì vậy, nó bộc lộ những khuyết điểm và làm nảy sinh nhiều câu hỏi. Thứ
nhất, liệu tăng trưởng kinh tế có đưa đến phát triển hay không, nói cách khác, tăng trưởng
kinh tế có bảo đảm giải quyết tất cả các vấn đề xã hội có liên quan đến sự phát triển hay
không. Thứ hai, liệu tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra liên tục trong những điều kiện bất
bình đẳng xã hội hay không. Những câu hỏi này đã được các nhà nghiên cứu về phát triển
4
trả lời và quan điểm khá phổ biến hiện nay là không thể đồng nhất tăng trưởng kinh tế với
phát triển. Một nội dung quan trọng của phát triển là công bằng xã hội. Vậy khái niệm
công bằng xã hội được hiểu như thế nào.
Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế trong kinh tế học là cái có thể xác định
bằng những con số, khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tuỳ thuộc
nhiều vào quan điểm của con người. Chính những quan niệm khác nhau về bình đẳng đã
dẫn đến những cách hiểu khác nhau về quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng. Trong
kinh tế học, người ta sử dụng hai khái niệm khác nhau về bình đẳng hoặc công bằng.
Khái niệm thứ nhất là công bằng theo chiều ngang, nghĩa là đối xử như nhau với những
người có đóng góp như nhau. Khái niệm thứ hai là công bằng theo chiều dọc, nghĩa là đối
xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội
khác nhau. Nếu như công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì
công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của chính phủ. Việc phân định và kết hợp
công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng xã hội thực sự.
Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, hoàn chỉnh gồm cả các yếu
tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Có thể có bình đẳng về phương diện kinh tế
nhưng chưa chắc có bình đẳng về phương diện khác. Trong nền kinh tế thị trường, thu
nhập được phân bổ theo mức độ tham gia của các yếu tố (vốn, kĩ thuật, lao động, tài
nguyên) vào quá trình sản xuất và do đó có thể đảm bảo sự bình đẳng về phương diện
kinh tế. Tuy nhiên, các tầng lớp xã hội khác nhau có thể không có được những bình đẳng
trong các hoạt động chính trị, xã hội.
Chính nội hàm rộng của khái niệm bình đẳng xã hội đã làm cho vấn đề của khái
niệm bình đẳng trở nên phức tạp. Cho đến nay, người ta vẫn chủ yếu sử dụng các công cụ
đo lường mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập để biểu đạt bình đẳng xã hội nói
chung. Thu nhập được phân phối theo các yếu tố của quá trình sản xuất (được gọi là phân
phối theo chức năng), hoặc theo các nhóm dân cư ( được gọi là phân phối theo mức độ).
Phân phối theo mức độ thường được sử dụng nhiều hơn.
Phương pháp phổ biến nhất để đo mức độ bình đẳng trong phân phối là tính tỷ lệ
thu nhập nhận được bởi nhóm 20% dân số lớp dưới cùng so với thu nhập mà nhóm 20%
dân số lớp trên cùng nhận được. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ, mức độ bất bình đẳng càng lớn,
và ngược lại. Người ta còn có thể đo mức độ bất bình đẳng bằng cách so sánh thu nhập
của nhóm 10% hoặc nhóm 5% người nghèo nhất với thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm
5% người giàu nhất. Phương pháp này chỉ cho thấy sự cách biệt về thu nhập giữa số ít
thuộc tầng lớp giàu có nhất và số ít thuộc tầng lớp nghèo nhất mà không thể hiện được
trạng thái bất bình đẳng xã hội nói chung. Chẳng hạn ,ở một xã hội, có thể có sự chênh
lệch thu nhập rất lớn giữa một số nhỏ thuộc tầng lớp giàu có nhất và một số nhỏ thuộc
tầng lớp đáy, nhưng có thể đại đa số dân cư nằm ở tầng trung lưu, nghĩa là có mức thu
nhập không chênh lệch nhiều so với tầng lớp giàu có.
Một trong những công cụ để biểu đạt mức độ bất bình đẳng được sử dụng trong
kinh tế học là đường cong Lorenz mang tên nhà kinh tế học nêu lên học thuyết này.
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông mà cạnh bên là phần
trăm số thu nhập còn cạnh đáy biểu thị số phần trăm các nhóm dân sắp xếp theo thứ tự
mức thu nhập tăng dần. Đường cong Lorenz chỉ ra tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập
cộng dồn theo tỷ lệ phần trăm cộng dồn của người nhận.
5
Phần trăm dân số Phần trăm dân số
Một sự phân phối tương đối bình đẳng Một sự phân phối tương đối bất bình đẳng
Đường cong Lorenz càng lớn, mức độ bất bình đẳng càng cao
Đường chéo của hình vuông biểu thị mức độ bình đẳng hoàn toàn trong phân phối:
cứ bao nhiêu phần trăm số người nhận thì được từng ấy phần trăm trong tổng thu nhập.
Chẳng hạn, 10% dân cư được nhận đúng 10% tổng thu nhập. Đường cong Lorenz bắt đầu
từ điểm gốc của đường chéo này và kết thúc ở đầu phía trên của đường chéo: 0% người
nhận phải có được 0% thu nhập và 100% người nhận phải có 100% thu nhập. Trong
trường hợp chỉ có 1 người nhận toàn bộ thu nhập, đường cong Lorenz sẽ chạy theo cạnh
đáy và cạnh bên phải. Đó là trường hợp hoàn toàn bất bình đẳng. Nhìn chung, đường
cong Lorenz nằm ở khoảng giữa đường chéo (hoàn toàn bình đẳng) và đường hoàn toàn
bất bình đẳng. Mức độ cách xa đường chéo thể hiện mức độ bất bình đẳng.
Hệ số Gini (Gini Coeficient) hay tỷ lệ tập trung Gini mang tên nhà thống kê học
người Italia, là thước đo sử dụng phổ biến để xác định mức độ bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập. Hệ số này được xác định bằng cách lấy diện tích hình a được xác định bởi
đường cong Lorenz và đường bình đẳng chia cho diện tích tam giác BCA. Điều này có
nghiã là khoảng cách giữa đường cong Lorenz và đường bình đẳng càng lớn thì hệ số
Gini càng cao. Hệ số này trải rộng từ 0 (hoàn toàn bình đẳng) đến 1 (hoàn toàn bất bình
đẳng). Tuy vậy, việc sử dụng phương pháp này cũng có nhiều hạn chế, bởi vì diện tích
hình a có thể như nhau (nghĩa là nhận được hệ số Gini giống nhau) nhưng được phân bổ
các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau là khác nhau, do đó hình dạng của đường
cong Lorenz khác nhau.
Như vậy, việc sử dụng đường cong Lorenz hoặc hệ số Gini chỉ cho phép hình
dung một cách khái quát mức độ bất bình đẳng, còn phương pháp xem xét thu nhập của
nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất chỉ cho biết chênh lệch giữa hai cực giàu nghèo của
xã hội. Mặc dù trong nhiều trường hợp các kết quả không trùng khớp với nhau, song việc
tính toán dựa trên các phương pháp này đều cho thấy xu hướng chung của mức độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Các phương pháp đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập như trên
mặc dù rất hữu dụng nhưng chưa đủ để xác định công bằng xã hội ở một nước. Có thể có
sự bất bình đẳng nhất định trong phân phối thu nhập song chưa chắc đã có công bằng xã
hội xét về nhiều khía cạnh khác. Chẳng hạn, khi người ta có mức thu nhập ngang nhau
nhưng sống trong những điều kiện khác nhau hoặc được cung cấp các dịch vụ khác nhau
thì mức độ bất bình đẳng thực sự sẽ khác nhau. Vì vậy, các nhà nghiên cứu về phát triển
đã đưa ra hàng loạt cách thức khác để xác định mức độ công bằng xã hội.
Mức độ nghèo khổ. Để xác định được mức độ nghèo khổ, người ta phải đưa ra
đường giới hạn nghèo khổ. Chẳng hạn, Liên hợp quốc đã xác định người có mức sống
dưới 1 USD/ngày ở các nước đang phát triển thì được coi là nghèo khổ. Còn đối với các
6
nước phát triển thì đường nghèo khổ được xác định là14 USD/người/ngày tính theo sức
mua tương đương. Tuy vậy, đường danh giới nghèo khổ cũng chỉ là thước đo số lượng về
mức độ bất bình đẳng. Cần bổ sung các tiêu chí chất lượng như mức độ cung ứng các
dịch vụ, môi trường sống...
Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người được coi là một chỉ số đánh
giá trình độ phát triển của một nước ở một thời kỳ nhất định. Những nhu cầu cơ bản này
bao gồm mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự phát
triển của cá nhân. Mặc dù có thể khác nhau về nhu cầu cơ bản, nhưng nhìn chung có thể
đo lường các nhu cầu này. Một xã hội không được coi là công bằng khi đại đa số dân cư
không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản này bất luận mức thu nhập quốc dân bình quân
đầu người có thể cao.
Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Viện Nghiên cứu phát triển xã hội của Liên
hợp quốc nêu ra bao gồm một danh sách 73 chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Trên thực
tế, rất ít nước có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển,
mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt được chỉ số
phát triển xã hội cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số đã
gây khó khăn cho việc tính toán. Vì vậy, người ta nêu ra một chỉ số khác được gọi là “chỉ
số vật chất của cuộc sống” (The Physical Quality of Life Index – PQLI). Chỉ số được tính
toán dựa trên ba tiêu chí cơ bản là tuổi thọ dự báo, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá
nạn mù chữ. Các tiêu chí này hiển nhiên là quá ít và không đề cập trực tiếp đến thu nhập.
Tuy vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, các nước có mức thu nhập bình quân đầu người
cao không phải bao giờ cũng đạt được PQLI cao. Nói cách khác, chỉ số này phản ánh
những khía cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã
hội của một nước.
Một chỉ số khác tương tự được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây là chỉ số
phát triển con người (HDI) do chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra
và sử dụng lần đầu tiên vào năm 1990. Chỉ số này trải từ 0 (mức độ phát triển con người
thấp nhất) đến 1 (mức độ phát triển con người cao nhất) và được tính toán dựa trên ba chỉ
số về phát triển là tuổi thọ, kiến thức (đo bằng tuổi bình quân của người lớn biết chữ và
số năm đi học) và thu nhập (được đo bằng thu nhập bình quân đầu người thực tế đã được
điều chỉnh). Như vậy, so với PQLI, mặc dù HDI cũng chỉ dựa trên ba tiêu chí nhưng chỉ
tiêu này có tính bao quát hơn do nó thể hiện được ba khía cạnh quan trọng nhất của con
người về tuổi tác, trí tuệ và mức sống. Theo chỉ số này năm 1990, Ghinê là một nước có
trình độ phát triển thấp nhất (0.050) và Canađa là nước có trình độ phát triển cao nhất
(0.982), Việt Nam thuộc nhóm phát triển trung bình (0.557) vào thời điểm năm 1994.
II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội
Việc xác định rõ khái niệm và các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội mặc dù phức tạp nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề cơ bản là giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội có quan hệ với nhau như thế nào. Phải chăng đó là hai
quá trình đối nghịch? Nếu vậy, tăng trưởng không thể đưa đến phát triển xã hội. Nếu
không đối nghịch thì tự thân tăng trưởng kinh tế có tạo ra công bằng xã hội hay không và
nó có thể xảy ra đồng thời với công bằng xã hội hay không. Công bằng xã hội chỉ là hệ
quả của tăng trưởng kinh tế hay còn là điều kiện tiền đề của nó. Đó là những vấn đề đã
được thảo luận rộng rãi trong kinh tế học phát triển và kinh tế học phúc lợi cũng như
trong các ngành khoa học xã hội nhân văn khác trong nhiều thập kỷ. Những quan điểm về
vấn đề này có thể khái quát thành một số trường phái chính:
7
1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng. Những người theo quan
điểm này cho rằng tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bằng bất bình đẳng trong phân phối
và làm gia tăng sự bất bình đẳng này. Lập luận của họ là: chỉ tầng lớp có thu nhập cao
mới có khả năng tích luỹ và do đó là nguồn gốc đảm bảo đầu tư chủ yếu cho tăng trưởng
nên bất kỳ sự phân phối nào làm giảm mức độ tập trung thu nhập này đều ảnh hưởng xấu
đến tăng trưởng kinh tế. Lập luận này không phải không có cơ sở thực tiễn lịch sử của sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhờ quá trình tích tụ và tập trung tư bản kèm theo sự bần
cùng hoá một tầng lớp đông đảo trong xã hội mà cuộc cách mạng công nghiệp có được
lực đẩy phi thường. Nhà kinh tế học cổ điển Anh, David Ricardo, đã lập luận theo hướng
đó. Ông cho rằng, tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bởi mức độ tiết kiệm cao của tầng
lớp tư sản, và do đó, ông chống lại việc phân phối lại thu nhập bất lợi cho giai cấp tư sản.
C.Mác cũng giải thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản bằng lập luận tương tự, mặc dù
ông phản đối trật tự hiện có của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ ra quá trình phát triển của chủ
nghĩa tư bản đã dẫn đến sự bất bình đẳng lớn đến mức nó trở thành lực cản đối với sự
phát triển tiếp theo.
Tháng 1-1993, khi Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ và bước vào Nhà trắng, thì
trong ê-kíp của ông có một số nhân vật quan trọng là môn đồ của học thuyết Keynes, và
chính những người này đã đề xuất các chính sách nhằm lái Hoa Kỳ ra khỏi quỹ đạo của
chủ nghĩa tự do mới mà các chính quyền của R. Reagan và G. Bush đã thi hành từ 1981
đến1992. Tuy nhiên, trước sức ép của các thế lực tài chính, chính quyền Clinton đã phải
chuyển sang lập trường “trung tâm” , nghĩa là một mặt tiếp tục thực hiện tự do hoá về
kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa tự do mới, mặt khác thi hành một số chính sách xã
hội đã hứa hẹn trong cương lĩnh tranh cử năm 1992 (như tạo thêm việc làm, cải tiến chế
độ tiền lương và trợ cấp xã hội, chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục, v.v.) nhằm tranh thủ lá
phiếu của đa số cử chi thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp nghèo trong cuộc bầu cử lần
sau.
Sang nhiệm kỳ thứ hai, chính quyền Clinton lại đưa ra sáng kiến về việc xây dựng
“Nền kinh tế mới”, dựa trên những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, trước
hết là công nghệ thông tin, đồng thời tiếp tục chi từ ngân sách của nhà nước cho các
chương trình phúc lợi xã hội.
Nhờ áp dụng những chính sách nói trên, nền kinh tế Mỹ đã duy trì được 100 tháng
tăng trưởng là thời kỳ tăng trưởng dài nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai; tỉ lệ thất
nghiệp giảm từ 7,1% năm 1992 xuống 4% năm 1999.
Tương tự lập trường “trung tâm” của Clinton, thủ tướng Anh Tony Blair cũng bắt đầu
ngả sang lý thuyết về “Con đường thứ ba” (The third way) do một nhà khoa học Anh là
Anthony Giddens nêu ra trong cuốn sách cùng tên xuất bản năm 1998. Lý thuyết về “Con
đường thứ ba” có tham vọng trở thành triết lý mới về mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái
xã hội trong chủ nghĩa tư bản theo hướng kết hợp những mặt mạnh và triệt tiêu những
mặt yếu của cả mô hình Keynes lẫn mô hình chủ nghĩa tự do mới
Những lập luận đầy đủ nhất về tăng trưởng đối lập với công bằng được trình bày
trong lý thuyết của Athur Lewis bàn về các nước đang phát triển. Dựa trên giả thuyết của
Ricardo và C.Mác cho rằng, lao động có thể được sử dụng với số lượng không hạn chế ở
mức tiền lương thực tế cố định chứ không phải là một nguồn lực khan hiếm, Lewis đã
xây dựng mô hình phát triển kinh tế với nguồn lao động không có giới hạn hay mô hình
lao động dư thừa. Trong mô hình này, ông cho rằng bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập sẽ tăng trong thời kỳ đầu và chỉ sau khi đã đạt đến một sự phát triển cao mới giảm
Comment [L1]:
8
đi. Theo Lewis, bất bình đẳng không chỉ là kết quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế mà
đồng thời còn là nguyên nhân của tăng trưởng. Bởi lẽ phân phối có lợi cho những người
có thu nhập cao sẽ tạo mức tiết kiệm cao. Ông lập luận “vấn đề trung tâm trong lý thuyết
phát triển kinh tế đó là hiểu được quá trình