Trên nhiều diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế cũng như trong các chính sách, chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển bền vững đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Ở Việt Nam, phát triển bền vững là một trong những nội dung cơ bản để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà nền kinh tế hướng tới.
Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất hiện biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.
Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn; tăng trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội và điều này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia. Vậy nên, quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới. Do vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề “ Tăng trưởng kinh tế với vấn đề phát triển bền vững ở Việt nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
32 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8175 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế với vấn đề phát triển bền vững ở Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trên nhiều diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế cũng như trong các chính sách, chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển bền vững đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Ở Việt Nam, phát triển bền vững là một trong những nội dung cơ bản để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà nền kinh tế hướng tới.
Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất hiện biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.
Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn; tăng trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội và điều này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia. Vậy nên, quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới. Do vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề “ Tăng trưởng kinh tế với vấn đề phát triển bền vững ở Việt nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế kinh tế.
Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau nhất định trong quan niêm, nhưng nói chung, sự tiến bộ trong mét giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta thường dùng hai thuật ngữ tăng trưởng và phát triển để phản ánh sự tiến bộ đó.
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng XXXoil (hay gia tăng) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời ký nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng XXXoil của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân theo đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được xem xét trên 2 mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng năm, hoặc bình quân trong mét giai đoạn.
Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong mét giai đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng XXXoil sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
1.1.2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng XXXoil về qui mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã hội.
Những vấn đề cơ bản nhất định của định nghĩa trên bao gồm:
Trước hết sự phát triển bao gồm cả sự tăng XXXoil về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
Tăng XXXoil qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương đối của lượng và chất.
Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo kịp thời gian do những nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định
Kết quả của sự phát triển kinh tế –xã hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan, còn mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.
1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá
Phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một sự chuyển biến của nền kinh tế, từ trạng thái thấp lên một trạng thái cao hơn. Do vậy, không có tiêu chuẩn chung về sự phát triển. Các nhà kinh tế học phân quá trình đó ra các nấc thang: kém phát triển, đang phát triển và phát triển… gắn với các nấc thang đó là những giá trị nhất định, mà hiện tại chưa có sự thống nhất hoàn toàn.
Một số thước đo của sự tăng trưởng: tổng sản phẩm trong nước (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập bình quân đầu người
Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế: chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M), chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I).
1.2.1 Một số thước đo của sự tăng trưởng
1.2.1.1 Tổng sản phẩm trong nước (hay tổng sản phẩm quốc nội – GDP)
Thường được hiểu là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong pham vi lãnh thổ quốc gia. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau:
+ Về phương diện xa, GDP có thể được xác định bằng toàn bộ giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước. Giá trị gia tăng được xác định dùa trên cơ sở hạch toán các khoản chi phí, các yếu tố sản xuất và lợi nhuận cảu các cơ sở sản xuất và dịch vụ.
Giá trị Giá trị Chi phí các yếu tố
gia tăng = sản lượng trung gian(đầu vào)
(Y) (GO) (IE)
+ Về phương diện tiêu dùng, thì GDP biểu hiện ở toàn bộ hàng hoá và dịch vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành của thị trường được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ quốc gia hàng năm
Xác định GDP theo tiêu dùng thường dùa trên cơ sở thống kê thực tế về tổng các khoản tiêu dùng của các hộ gia đình (C), tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp (I), các khoản chi tiêu của Chính phủ (G) và phần xuất khâu ròng (X-Mso sánh trong năm.
GDP=C + I + G + (X-M)
Do tính GDP theo giá hiện hành của thị trường, nó đã bao gồm cả thuế gián thu (Te), cho nên GDP tính theo giá thị trường sẽ chênh lệch với GDP tính theo các chi phí các yếu tố sản xuất một lượng giá trị, đó là thuế gián thu (Te)
GDPsản xuất = GDPtiêu dùng – Te
= C + I + G +(X-M)
Xác định theo phương diện thu nhập, GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng đem lại.Suy đến cùng thì đó là các khoản mà các hộ gia đinh được quyền tiêu dùng (C1), các doanh nghiệp tiết kiệm được (S1) dùng để đầu tư, bao gồm cả thuế khấu hao (S1 = I1) và chi tiêu của Nhà nước từ nguồn thu thuế (T)
GDPthu nhập = Cp + Ip + T
GDP theo cách xác định trên đã thể hiện là một thước đo sự tăng trưởng kinh tế do các hoạt động sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia tạo ra, không phân biệt sở hữu trong hay ngoài nước đối với kết quả đó. Do vậy, GDP phản ánh chủ yếu khả năng sản xuất của nền kinh tế một nước.
1.2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Tổng sản phẩm quốc dân là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra và có thể thu nhập trong năm, không phân biệt sản xuất được thực hiện ở trong nước hay ngoài nước.
Nh vậy, GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước thực sự thu nhập được. So với GDP thì GNP chênh lệch một khoản thu nhập tài sản với nước ngoài.
GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
Với ý nghĩa là thước đo thu nhập của nền kinh tế với sự tăng XXXoil GNP thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các hành động kinh tế đem lại.
GNP thực tế là GNP được tính theo giá cố định nhằm phản ánh đúng sản lượng gia tăng hàng năm, loại trừ những sai lệch do biến động giá cả tạo ra. Khi GNP tính theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.
1.2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người
Khả năng nâng cao phóc lợi vật chất cho nhân dân một số nước, không chỉ là tăng sản lượng của nền kinh tế, mà còn liên quan đến vấn đề dân số- con người. Nó tỷ lệ thuận với qui mô sản lượng và tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nghịch với dân số và tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên hằng năm. Do vậy chỉ số thu nhập bình quân đầu người là một chỉ số thích hợp hơn để phản ánh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, nó vẫn chưa nói lên mặt chất mà sự tăng trưởng đưa lại. Cho nên để nói lên sự phát triển người ta dùng hệ thống các chỉ số.
1.2.2. Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế
1.2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội
Chỉ số này phản ánh tỷ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP. Nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ sản lượng của công nghiệp và dịch vụ ngày càng cao trong GDP, còn tỷ lệ của nông nghiệp thi giảm đi tương đối.
1.2.2.2. Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M)
Tỷ lệ của giá trị sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế với thế giới. Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP tăng lên.
1.2.2.3. Chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I)
Tỷ lệ tiết kiệm – đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thể hiện rõ hơn vể khả năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Đây là một nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Những nước có tỷ lệ đầu tư cao (từ 20 – 30% GDP) thường là các nước có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên tỷ lệ này còn phụ thuộc vào qui mô của GNP và tỷ lệ giành cho tiêu dùng (C) theo cơ cấu:
I = GNP – C + X – M
1.3. Các quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.3.1. Quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng.
Những người theo quan điểm này cho rằng tăng thu nhập là quan trong nhất. Thực tế cho thấy những nước theo quan điểm này đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, không ngừng tăng thu nhập cho nền kinh tế. Song còng cho thấy những hạn chế cơ bản của việc lùa chọn này:
Thứ nhất, sự tăng trưởng quá mức nhanh chóng vì những động cơ có lợi Ých cục bộ trước mắt đã đưa đến sự khai thác bừa bãi không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của các nước chậm tiến và các thế hệ sau này.
Thứ hai, cùng với sự tăng trưởng là những bất bình đẳng về kinh tế và chính trị xuất hiện, tạo ra những mâu thuẫn và xảy ra xung đột gay gắt:
- Xung đột giữa khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Nông nghiệp không những chỉ giảm tỷ lệ tương đối mà còn bị thu hẹp cả không gian sản xuất. Đất đai bị mất, bị thoái hoá, môi trờng bị huỷ hoại.
- Xung đột giữa các giai cấp chủ và thợ, gắn với nạn thất nghiệp tràn lan.
- Xung đột các dân téc, sắc téc, tôn giáo: xảy ra mâu thuẫn về lợi Ých kinh tế- xã hội, do quá trình tăng trưởng không đều tạo nên.
Thứ ba, phát triển đưa lại những giá trị mới song nó cũng phá huỷ và hạ thấp một số giá trị truyền thống tốt đẹp: nền giáo dục gia đình, thuần phong mỹ tục, đạo đức… Đồng thời với việc làm giầu băng bất cứ giá nào thì các tội ác cũng phát triển.
Thứ tư, sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng còn đưa đến những diễn biến khó lường trước, cả mặt tốt và không tốt. Do vậy đời sống kinh tế – xã hội thường bị đảo lộn, mất ổn định, khó có thể lường trước được hậu quả.
1.3.2. Quan điểm nhấn mạnh vào công bằng và bình đẳng trong xã hội
Theo quan điểm này, sự phát triển sản xuất được đầu tư dàn đều cho các ngành, các vùng và sự phân phối được tiến hành theo nguyên tắc bình quân. Những người lùa chọn quan điểm này đã hạn chế được sự bất bình đẳng trong xã hội. Đại bộ phận dân cư đều được chăm sóc về văn hoá, giáo dục, y tế của Nhà nước. Những hạn chế cơ bản của việc lùa chọn này là nguồn lực hạn chế lại bị phân phối dàn trải nên không thể tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao và việc phân phối đồng đều cũng không tạo được động lực thúc đẩy người lao động.
Quan điểm phát triển toàn diện
Đây là sự lùa chọn trung gian giữa hai quan điểm trên. Vừa nhấn mạnh về số lượng, vừa chú ý về chất lượng của sự phát triển. Theo quan điểm này tuy tốc đọ tăng trưởng có hạn chế nhưng các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết.
1.4. Quan điểm về phát triển bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là:
Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng.
Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêu thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong giới nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan niệm về phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh: Một là, phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị môi trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố cấu thành những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. XXXoil à, phát triển bền vững là sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát triển hôm nay không làm ảnh hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
Từ nội hàm khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được XXXoil à bền vững cần đạt được những yêu cầu sau:
Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế.
Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu người thấp thì vẫn XXXoil à chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững.
Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi quốc gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không cao quá và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,… đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
1.5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững
1.5.1. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho phát triển nhưng không đồng nghĩa với phát triển. phát triển chỉ dựa trên tăng trưởng đơn thuần thì sự tăng trưởng đó khoog lâu bền. Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy, nếu sự phát triển không tương ứng hoặc chỉ đáp ứng đủ nhu cầu cho dân số hiện tại nhưng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của dân số tương lai, phát triển dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, không dựa trên cơ sở bảo vệ môi trường thì sự phát triển đó không thể gọi là bền vững.
Theo chuyên gia kinh tế thuộc ngân hàng thế giới : “ phát triển là nâng cao phúc lợi cho nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khỏe và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh tế. bảo đảm tất cả các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn. Tăng trưởng kinh tế là một cách cơ bản để có được sự phát triển, nhưng trong bản thân nó là một đại diện không toàn vẹn của sự tiến bộ”.
Tất cae các nước đều dặt ra mục tiêu phát triển, muốn phát triển được phải dựa trên đôi cánh của tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế không phải đôi cánh duy nhất, mặc dù nó được coi là quan trọng nhất cho sự phát triển.
1.5.2. Hậu quả của tăng trưởng đối với phát triển bền vững.
Tăng trưởng qáu nhanh sẽ dẫn tới tình trạng lạm phát.
Có sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, vì để tăng trưởng thì phải tăng đầu tư, mà để tăng đầu tư thì phải tăng tiền, tăng tín dụng.
Nếu nhìn vào hệ số ICOR (đo lường đơn vị đầu tư cần thiết để tạo them một đơn vị tăng trưởng), chúng ta thấy có hai triệu chứng: thứ nhất, là ICOR của ta tăng rất nhanh, đến giwuax những năm 1990 để tạo ra 1 đơn vị tăng trưởng, tức là nền kinh tế vận hành kém hiệu quả, và đây là một nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát.Lạm phát ở Việt Nam có xu hướng tăng cao. Mức lạm phát trung bình của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực.
Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng
Tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ dẫn đến lạm phát.khi có lạm phát tức là giá cả sẽ tăng lên. Giá cả tăng sẽ tác động đến mọi người dân, nhưng tác động mạnh nhất là công chức nhà nước và người nghèo. Ở phương tây, có một câu nói đùa nhưng đầy ý nghĩa: “ lạm phát là một loại thuế hết sức dã man mà loại thuế này đánh mạnh nhất vào nhóm người nghèo khổ nhất”. Trong nhóm người nghèo bị tác động mạnh ở VN có một phần rất đông là nông dân, sản xuất nông nghiệp.
Nói một cách đơn giản, giá cả tăng sẽ tác động đến tất cả mọi tầng lớp, nhưng với những người giàu, có điều kiện sẽ ít bị tác động hơn vì trong tổng thu nhập , họ chỉ phải sử dụng một phần cho chi tiêu hàng ngày. Còn những người nghèo thì hầu hết thu nhập dùng cho chi tiêu hàng ngày, có bao nhiêu phải chi hết,thậm chí không đủ mà chi. Vì vậy, giá cả càng tăng thì càng tác động tiêu cực đến người nghèo và quá trình đó sẽ làm phân hóa giàu nghèo càng mạnh hơn.
Tăng trưởng kinh tế làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường sinh thái.
Cách thức phát triển của loài người trong mấy chục năm qua đã tạo ra áp lực làm kiệt quệ tài nguyen thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môitrường – cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. trong khi loài người chiếm lĩnh từ đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không lường trước được: thiên tai, lũ lụt, hạn hán…
Tăng trưởng kinh tế hủy hoại giá trị truyền thống của quốc gia