"Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, 'Tục" là thói quen lâu
đời. Nội dung phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội
Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân
rât bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống
văn hoá của dân tộc Việt Nam, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho
đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống
Việt Nam từ hàng nghìn đời nay, là thời điểm giao thời giữa năm cũ và
năm mới, Tết từ ngày xưa đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện
mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên qua bốn mùa .
31 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 25086 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tết nguyên đán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP.HCM
TIỂU LUẬN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: TẾT NGUYÊN ĐÁN
GVHD: Trương Thị Mỹ Châu
Thực Hiện: Nguyễn Chí Trọng
MSSV: 13145292
TP.HCM, Ngày 01 Tháng 05 Năm 2015
2
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU...................4
II. NỘI DUNG.5
1. Lịch sử Tết Nguyên Đán.5
1.1. Từ nguyên..5
1.2. Nguồn gốc ra đời......5
1.3. Quan niệm ngày tết..6
2. Các giai đoạn chình trong tết....6
2.1. Những ngày cuối năm..6
2.1.1. Trang trí – mua sắm tết...6
2.1.1.1. Mâm ngũ quả..6
2.1.1.2. Tranh tết..8
2.1.1.3. Câu đối......10
2.1.1.4. Hoa tết...10
2.1.1.5. Bàn thờ tổ tiên ngày tết.................12
2.1.1.6. Treo quốc kì..15
2.1.2. Ông Táo về trời..15
2.1.3. Thăm mộ tồ tiên.17
2.1.4. Tất niên17
2.2. Giao thừa..18
2.2.1. Cúng ngoài trời...19
2.2.2. Cúng trong nhà......20
2.3. Nhừng ngày đầu năm.20
2.3.1. Xông đất đầu năm.20
2.3.2. Xuất hành – hái lộc – xin quẻ..21
2.3.3. Chúc tết...23
2.3.4. Lì xì..23
2.3.5. thăm viếng..........24
3. Ẩm thực ngày tết...24
3.1. Bánh truyền thống..24
3.2. Cổ tết25
3.3. Trái cây.25
3.4. Mứt25
3.5. Bánh kẹo..25
3.6. Thức uống....26
3.7. Ẩm thực khác...26
4. Lễ hội ngày tết...26
3
4.1. Lễ hội truyền thống.26
4.2. Lễ hội ngày nay ..27
4.3. Lễ hội đặc trưng riêng ở các vùng miền..27
5. Tín ngưỡng ngày tết.28
5.1. Điềm lành.28
5.2. Kiêng cử...29
5.2.1. Miền Bắc.29
5.2.2. Miền Trung..30
5.2.3. Miền Nam30
III. TỔNG KẾT..31
4
I. PHẦN MỞ ĐẦU
"Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, 'Tục" là thói quen lâu
đời. Nội dung phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội
Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân
rât bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống
văn hoá của dân tộc Việt Nam, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho
đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống
Việt Nam từ hàng nghìn đời nay, là thời điểm giao thời giữa năm cũ và
năm mới, Tết từ ngày xưa đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện
mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên qua bốn mùa .
Tết còn là cơ hội để mọi người Việt tưởng nhớ về tổ tiên, cội
nguồn, gặp gỡ bà con họ hàng, thắt chặt mối quan hệ thân tình trong gia
đình, bạn bè. Ngoài ra nó còn là dịp để mọi người nghỉ ngơi, thư giãn,
giải trí với các hoạt động lễ hội, du xuân vui vẻ và hấp dẫn.
5
II. NỘI DUNG
1. Lịch sử
1.1 Từ nguyên
Chữ "Tết" do chữ "Tiết" mà thành. Hai chữ "Nguyên đán" có
gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" có
nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết
Nguyên Đán" Tết Nguyên đán được người Trung Hoa hiện nay gọi là
"Xuân Tiết" hoặc "Nông lịch tân niên", và vẫn là tết cổ truyền của họ mặc
dù từ năm 1949 (bắt đầu thời kỳ Đại cách mạng văn hóa), Trung
Quốc đã chính thức chuyển qua dùng dương lịch và chuyển qua gọi Tết
dương lịch là Tết Nguyên đán
Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho
nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam đôi khi không hoàn toàn trùng
với Xuân tiết của người Trung Quốc và các quốc gia chịu ảnh hưởng
bởi văn hóa Trung Hoa và vòng Văn hóa chữ Hán khác, mà có thể
chênh lệch 1 ngày (như vào các năm 2007, 2030, 2053, Tết Việt Nam
trước Tết Trung Quốc 1 ngày).
1.2 Nguồn gốc ra đời
Tết Nguyên Đán có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương,
nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng,
nhằm tháng Dần. Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con
trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050-256 trước
công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một
làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên
lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài
người mà đặt ra ngày tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử
ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần
(thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi
(con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140
trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng)
như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn
nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông Phương Sóc, ông
cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm
Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu,
ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám
mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một
cho đến hết ngày mồng bảy.
6
1.3 Quan niệm ngày tết
Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi
khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước
Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa
quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ
không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm
khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và
chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn
được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng
tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng
có những điều khác nhau.
2. Các giai đoạn chính trong Tết
2.1 Những ngày cuối năm
Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều
phải thật sớm và mới. Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia
đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa,
mua hoa, sắm thức ăn... thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả
những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị
vứt bỏ.
2.1.1 Trang trí, sắm tết
2.1.1.1 Mâm ngũ quả:
Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Theo quan niệm cổ đại phổ
biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, thường cho
rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số 5. Phổ biến, chúng ta có
ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị,
ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc, Như vậy, số 5 là biểu
hiện chung của sự sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập
thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả.
Quả (trái) - biểu tượng của sung túc. Trái cây nói chung là biểu
tượng của sự sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều hạt, biểu
tượng cho mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt
bên trong của nó) biểu thị cho sự phồn thực, sinh sôi Xuất phát từ
quan niệm về chuộng số lẻ của văn hóa phương Đông, về bộ ngũ hoàn
hảo (ngũ hành, ngũ vị, ngũ sắc), về sự đầy đủ (như bàn tay 5 ngón)
7
mà mâm trái cây dâng cúng tổ tiên và chưng ngày tết của người Việt
được gọi là mâm ngũ quả.
Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về ngũ hành: thuỷ -
hỏa - mộc - kim - thổ những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của
nó. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả có các màu khác nhau như
chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho
mong ước: Phú (giàu có) - quý (sang trọng) - thọ (sống lâu) - khang
(khỏe mạnh) - ninh (bình yên). Mỗi một miền lại có một quan niệm riêng
về ý nghĩa mâm ngũ quả.
Người Nam bộ có
cách đọc chại âm hay đơn
tiết hóa một số từ, ví dụ chỉ
tên trái mãng cầu thì gọi
đơn tiết hóa là Cầu (mãng
cầu: thoả mãn trong sự
cầu xin) - Sung (sung: chỉ
sự sung túc, sung mãn) -
Vừa (đọc chệch âm là dừa:
quả dừa) - Đủ (đơn tiết hóa
của đu đủ và xài (là cách
đọc chệch của âm xoài).
Người miền Trung
do chịu sự giao thoa văn
hóa 2 miền Bắc - Nam
nên mâm ngũ quả vẫn
bày biện đủ: chuối, mãng
cầu, sung, dừa, đu đủ,
xoài Rất phong phú!
Mâm ngủ quả miền Trung
Mâm ngủ quả miền Nam
8
Trong khi đó, người
miền Bắc hướng đến ý nghĩa
biểu trưng nhiều hơn, quả
phật thủ hay nải chuối như
bàn tay che chở của đức
phật cho tất cả mọi người;
quả bưởi, dưa hấu thể hiện
cho sự đầy đặn, trọn vẹn
căng đầy sức sống; màu sắc
thắm tươi của quýt, hồng
tượng trưng cho sự may
mắn, phồn thịnh cát tường.
Ngày nay, mâm quả trên
bàn thờ tết người Việt phong phú hơn về chủng loại bởi sự góp mặt của
những hoa quả ngoại nhập. Với tính dung hợp trong văn hóa, người Việt
Nam luôn có thể tìm thấy tất cả những yếu tố thích hợp, có giá trị ý
nghĩa đối với đời sống tâm linh của dân tộc mình. Cuối cùng, những sản
vật đẹp mắt nhất, tinh tuý nhất, được dâng bày với những tình cảm hiếu
kính, trang trọng và thiết thân nhất. Bàn thờ tết không chỉ là nơi mà mọi
người bày tỏ tình cảm gia đình, huyết thống mà đó còn là nơi chúng ta
gửi gắm những lời chúc may mắn và một năm mới an khang, thịnh
vượng hơn.
2.1.1.2 Tranh Tết
Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của
người dân Việt Nam. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian
của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Tranh Tết là một phần hồn Việt trong
lành, nhân hậu và đồng thời cũng là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh
sâu sắc. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm
cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Những bức tranh Tết đều có hàm ẩn những nội dung cao xa,
những ý nghĩa thâm thúy, mang nặng tính chất đặc thù dân tộc, có tính
cách giáo dục, trào lộng, đôi khi còn lồng vào những nét châm biếm nhẹ
nhàn. Có thể phân loại tranh Tết như sau:
Mâm ngủ quả miền Bắc
9
Tranh chúc tụng:
Tranh gà, tranh lợn, tướng
quân, tiến sĩ, Phúc-Lộc-Thọ
(hình vẽ hoặc chữ) mỗi bức
tranh đều có ý nghĩa của
những lời chúc: an lành, giàu
sang, tăng phẩm hàm chức
tước hoặc đông con.
Tranh để thờ phượng: như
táo quân, Phật Bà, Thổ công, tứ bình (4 loại hoa hay quả), tứ linh (lân,
long, qui, phượng), tứ thời (xuân, hạ, thu, đông).
Tranh lịch sử: Vẽ các anh hùng liệt nữ như Lý thường Kiệt, Hai
bà Trưng, Bà Triệu, Trần hưng Đạo, Ngô Quyền v v
Tranh giáo dục: cóc đi học, Nhị thập tứ hiếu (24 người giữ đạo
hiếu), tranh ngụ ngôn.
Tranh trào lộng: Chuột
đỗ trạng nguyên, chuột vinh
qui, đám cưới chuột,
chuột mèo hóa giải, hái dừa,
thầy đồ cóc.v.v.
Về phương diện nghệ thuật tạo hình là loại nghệ thuật phổ biến,
đơn giản. Đường nét giản dị và tùy tiện, tạo cho tranh một thể hiện mộc
mạc dể cảm. Màu sắc rực rỡ và chú trọng nhất là đường nét đen chạy
viền, bố cục không gò bó theo luật tương xứng.
Tranh Tết VN là loại tranh mộc mạc chân chất đi thẳng vào lòng
người những cảm xúc khi thì tôn nghiêm thờ phượng, khi thì bình lặng
suy tư, khi thì khuyên bảo hoặc châm biếm nhẹ nhàng. Làm cho lòng
người nồng ấm thêm một niềm tin, một chút kiêu hảnh bởi dòng giống
Tổ Tiên, hoặc thêm một tiếng cười hồn nhiên giòn giã trong ba ngày Tết.
Chuột đỗ trạng nguyên
Tranh Lợn
10
2.1.1.3 Câu đối
Câu đối tết thường viết trên
nền giấy đỏ, mực đen với ý nghĩa
màu đỏ tượng trưng cho sự đầm ấm,
sum vầy, hạnh phúc phù hợp với
không khí thiêng liêng của ngày Tết
cổ truyền. Câu đối thường được treo
ở chỗ trang trọng, nhiều người thấy
như: cửa ra vào nhà, hai bên bàn
thờ Câu đối xưa được viết bằng chữ
Hán, Nôm bởi những người học
hành, chữ nghĩa giỏi mà dân gian
thường gọi là Ông Đồ ngày nay câu
đối tết còn được viết bằng chữ Quốc
ngữ, nhưng theo phong cách thi pháp.
Câu đối được chia thành 2 loại: loại mang tính quy phạm loại mang tính
thi ứng. Câu đối mang tính quy phạm, thường làm ở trường thi, làm để
giáo huấn, thờ phụng Câu đối mang tính chất thi ứng, thường làm
trong các dịp hội hè, vãn đàm, hý lộng, lại chia thành các loại nhỏ
như: Châm biếm - đả kích, thử tài trí, ứng phó.
Câu đối ngày xuân là một thú chơi tao nhã cho mọi người, mọi
nhà, từ nông dân đến trí thức, từ kẻ nghèo hèn đến bậc đế vương, từ trẻ
nhỏ đến người già. Chính vì thế, ngày xuân, nếu thiếu một đôi câu đối
đỏ treo trong nhà chắc hẳn là ngày Tết chưa toàn vẹn. Đôi câu đối khiến
người ta cảm thấy Tết cổ truyền trở nên thiêng liêng hơn, trang trọng
hơn, và đặc biệt hơn những ngày bình thường khác.
Một số câu đối quen thuộc của dân gian ta:
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”
“ Năm mới hạnh phúc bình an đến
“ Tối ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu
Ủa! Tết!
Sáng mồng một, lắng tai nghe lời chúc
Ồ! Xuân!”
2.1.1.4 Hoa Tết
Đã thành thông lệ, cứ mỗi độ Tết đến Xuân về người người, nhà
Câu đối Tết
11
Hoa Đào
nhà lại náo nức sắm sửa cho gia đình mình những chậu hoa, cây cảnh
vừa ý để đón năm mới thêm khí thế. Tết đến, xuân về cũng là dịp trăm
hoa đua nở, khoe sắc làm đẹp cho đời. Hoa là thứ không thể thiếu trong
những ngày Tết cổ truyền của dân tộc, thế nên chắc cũng chẳng phải
"ngoa" khi nói rằng người Việt còn ăn Tết bằng hoa. Trong không khí
giao hòa của trời đất vào xuân, hoa như đem đến cho con người sức
sống mới và những gì tươi đẹp nhất của một mùa xuân.
Hoa cho ngày Tết nhiều không kể xiết. Nếu chỉ dạo qua một vòng
Chợ hoa, bạn sẽ thấy vô vàn những loài hoa đang đua nhau khoe sắc
rực rỡ như đào, mai, lay ơn, lily, cúc, vạn thọ, phong lan, thược dược,
xương rồng, quất kiểng Nhưng nói đến Tết, đào và mai vẫn chiếm
được nhiều cảm tình nhất
Với miền Bắc, hoa đào
được coi là biểu tượng thiêng
liêng của ngày Tết. Nó
không chỉ làm cho nhà cửa
thêm phần đẹp đẽ, ấm cúng, mà
màu đỏ thắm của hoa theo quan
niệm dân gian còn đem lại sự
may mắn cho cả năm. Ðào ở
miền Bắc cũng có nhiều giống
khác nhau như: đào bích, đào
phai, đào bạch và đào thất thốn
hay còn gọi là đào thế.
Còn người miền Nam một
cái Tết không thể thiếu nhành
mai. Khác với đào, mai phương
Nam dường như mang một
phong cách trẻ trung và năng
động hơn, biểu tượng cho cái
đẹp bừng nở, sự hưng vượng
trong năm mới.
Hoa Mai
12
Ngược lên Tây Bắc, mùa xuân về cũng là thời điểm hoa mai, hoa
mận đang nở trắng cả một vùng trời. Sau đào và mai, lay ơn và cúc là
các loại hoa được người dân ở cả 3 miền ưa thích
.
Còn đối với các bậc cao niên, nho nhã, mai trắng hay phong lan ta
lại là một trong số ít loại hoa được chọn làm tâm điểm cho "bữa tiệc hoa"
ngày Tết. Tuy nhiên, trong cái sung túc thời nay, người Sài Gòn và Hà
Nội sành chơi đã tìm đến các loài hoa "cao cấp" hơn như lily, tulip hay
lan ngoại. Riêng với người Huế, ngày Tết lại không thể thiếu một giò lan
ta treo lủng lẳng trước hiên nhà.
Một năm có 365 ngày, dù bận rộn đến đâu, người Việt Nam đều
hướng về những ngày Tết với ý nghĩa thiêng liêng, trang trọng nhất. Và
tất nhiên, ai nấy cũng đều mong muốn tìm chọn cho nhà mình một chậu
hoa thật đẹp và rực rỡ để trưng bày trong những ngày này. Đó dường
như là một nét đẹp truyền thống gắn với bản sắc văn hóa của dân tộc.
2.1.1.5 Bàn thờ tổ tiên ngày tết
Chăm chút bàn thờ
là cách để con cháu bày
tỏ lòng yêu kính và tưởng
nhớ đến ông bà tổ tiên, vì
thế, mỗi độ năm hết, Tết
đến công việc này được
mọi người chú ý trước
tiên.
Thờ phụng tổ tiên là
một trách nhiệm có tính
cách luân lý đối với người
Việt Nam, nó thể hiện cho
nhu cầu được phát lộ tình
cảm và niềm tin huyết
thống trong môi trường
gia đình.
Bàn thờ tổ tiên ngày tết
13
Giữ bàn thờ sạch bày tỏ lòng hiếu kính
Bàn thờ là nơi ngự vị của các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế
nó thường được đặt ở vị trí trung tâm và cao nhất trong nhà. Điều này
không chỉ để tránh sự va chạm mà còn tránh gió, bụi bặm và côn trùng.
Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc trước tiên vàđược thực hiện
một cách cẩn thận, tỉ mỉ.
Công việc chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu
kính và tưởng nhớ đế ông bà tổ tiên.
Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được dùng riêng, và rất
hạn chế sự chung đụng. Nước lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn
nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa thậm chí nước nấu từ lá
trầu, lá bồ đề để lau.
Trong tâm thức người Việt, người đã khuất và người còn sống luôn
có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Không gian thờ tự là không gian
thiêng liêng trong gia đình, là nơi lưu giữ nhiều ẩn ức tình cảm giữa các
thế hệ, chính vì thế việc giữ gìn bàn thờ luôn sạch sẽ, mát mẻ không chỉ
thể hiện sự chăm sóc và tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên mà
còn là sự chăm sóc đến cái tôi tâm linh ở mỗi con người.
Không phải đợi lúc năm hết tết đến, nhân dịp giỗ chạp hay vào
những ngày sóc vọng, người ta mới dọn dẹp và chăm chút bàn thờ. Tuy
nhiên, phải vào những ngày cận Tết, chúng ta mới thấy hết được không
khí bận bịu, tất bật của việc dọn dẹp và chuẩn bị sắm sửa đồ thờ.
Từ việc đánh sáng lại bộ tư đồng, lau chùi khung ảnh, thay cát bát
hương (nhang) đều thể hiện cho nhu cầu giao hòa, gắn kết mật thiết
giữa thế giới hữu tình và thế giới tâm linh thiêng liêng.
Công việc quét tước nhà cửa thường là việc của phụ nữ trong nhà
vì nó đòi tính cẩn thận, tỉ mỉ. Song việc bày bàn thờ ngày Tết lại được ưu
ái dành cho quý ông, đơn giản vì việc ấy nặng nhọc hơn. Hơn thế, người
đàn ông là chủ gia đình, phải đại diện chăm lo nơi cư ngụ của tổ tiên để
tỏ lòng hiếu kính.
Phụ nữ trong nhà thì lo việc bếp núc, nấu nướng và dọn dẹp gian
bếp. Đó là cách nhìn từ văn hóa truyền thống xưa kia. Ngày nay, nhất là
nơi đô thị, chúng ta không còn biệt rạch ròi việc này như trước.
Việc bày biện hay thắp hương (nhang) trên bàn thờ không phân
biệt nam nữ, tuổi tác như ở thôn quê. Tuy nhiên, để giữ nếp xưa, mọi
nhà vẫn mời người lớn tuổi nhất họ hay nhất nhà ra khấn và thắp hương
14
cho ông bà tổ tiên trong những ngày quan trọng như: tất niên, đêm giao
thừa, mừng năm mới, cúng tiễn
Chu đáo bày biện, lễ cúng
Trong gia đình Việt Nam ngoài việc chọn lựa vị trí trung tâm và cao
ráo để đặt bàn thờ, người Việt còn chú ý xem hướng của ngôi nhà và
tuổi của gia chủ để thấy nên đặt bàn thờ quay mặt về hướng nào là tốt
nhất.
Việc dọn dẹp hay bày biện bàn thờ vào ngày thường có thể qua
loa, sơ sài vì lý do bận bịu làm ăn, thu vén tiền bạc Song vào những
ngày Tết, công việc này được yêu cầu có sự chu đáo nhất định.
Trên bàn thờ tổ tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho
tinh tú) và trên bát hương có cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng
cho trục vũ trụ), hai bát hương khác đặt ở bên trái và bên phải tạo nên tư
thế tam tài; ở hai góc ngoài bao giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến)
tượng trưng cho mặt trời bên trái và mặt trăng ở bên phải.
Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc thỉnh cầu, có lúc sám hối
người ta thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo
các vòng khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên.
Lễ vật dâng cúng thường bao gồm vài bộ quần áo, giấy tiền vàng mã
cho các cụ, một vài cái chung (ly nhỏ, thấp) và một bình trà; đĩa hoa quả
lớn đặt ở trung tâm bàn thờ, một bình hoa lớn và một bình rượu ngon.
Xung quanh, ta có bày thêm bánh mứt cho cân đối và đẹp mắt.
Hoa để thờ cũng có nhiều loại, ví dụ hoa tươi hay hoa làm bằng
giấy bạc (một bạc, một vàng biểu tượng cho một âm một dương, âm
dương giao hòa) để có thể dùng được lâu. Đối với hoa tươi, người Việt
Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa lay ơn, hoa mai, hoa đào
trong cúng gia tiên ngày Tết
Khoảng sáng 30 Tết, việc bày biện bàn thờ Tết phải được hoàn
tất. Tuỳ theo điều kiện kinh tế hay văn hóa từng miền mà trên bàn thờ có
thêm cặp dưa hấu xanh, gói thuốc lá, cặp bánh chưng hay bánh tét
Việc thắp sáng cho bàn thờ ngày Tết cũng được bắt đầu từ ngày 30. Có
nhà sử dụng loại hương vòng, hay hương que loại lớn, cháy liên tục
trong nhiều ngày với nhiều ý nghĩa biểu trưng như các vì tinh tú đang tỏa
sáng, sự chăm lo ân cần của con cháu
15
Hương khói còn tạo nên một không khí ấm cúng nơi gian thờ, gắn
kết tình cảm và ước nguyện hạnh phúc của mọi người trong một gia
đình. Hương dùng cho những ngày Tết cũng thường là các loại hương
có mùi thơm đặc biệt ví dụ như hương bài, hương trầm,hương nhài là
những loại hương có mùi thơm hết sức đặc trưng cho nhân dân ba miền.
2.1.1.6 Treo Quốc Kì
Những năm sau ngày
thống