Sau một năm hoãn thực hiện việc thu thuế thu nhập chứng khoán, đến nay, khi thị
trường bắt đầu quá trình phục hồi, từ ngày 1/1/2010, các hoạt động đầu tư, kinh doanh
chứng khoán, chuyển nhượng cổ phiếu sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân. NĐT
được lựa chọn một trong hai phương thức nộp thuế, nộp theo thuế suất 20% trên thu
nhập tính thuế cả năm, nộp theo 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần.
Để xây dựng một thị trường chứng khoán phát triển trên Thế giới như hiện nay
phải mất cả trăm năm, trong khi đó TTCKVN mới chưa được 10 năm. Có thể nói
TTCKVN thời gian qua đã tăng trưởng khá nhanh và đạt được nhiều thành tích, khối
lượng giao dịch tăng, số NĐT tăng, tài khoản giao dịch tăng, nhưng nếu so với các
nước khác thì quy mô TTCKVN vẫn rất khiêm tốn. Hiện nay, số NĐT mở tài khoản
theo chúng tôi thống kê chưa được 1 triệu tài khoản, so với 80 triệu dân, nghĩa là chi
khoản 1%. Con số này còn quá nhỏ bé! Trung Quốc là nước khai trương thị trường
chứng khoán gần 20 năm, gần đây, năm 2008 mới đặt vấn đề thu thuế, khi số lượng tài
khoản giao dịch của họ đạt khoảng 10% dân số. Những nước tư bản phát triển cũng
vậy, họ chỉ đặt vấn đề thu thuế khi số lượng NĐT tham gia thị trường chứng khoán đạt
được tỷ lệ nhất định.
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là thuế TNCN đánh vào chứng khoán ở Việt Nam
được đưa ra vào thời điểm này liệu có phải là quá vội vàng, khi thị trường ở nước ta
còn quá non trẻ. Từ thời điểm triển khai dự luật thuế đã có nhiều ý kiến đưa ra trái
chiều nhau. Và nhiều câu hỏi được đặt ra. Chính sách thuế TNCN đánh vào chứng
khoán có thật sự hoàn thiện, mức thu, phương thức thu, thời điểm thu đã hợp lý chưa.
Việc áp dụng chính sách thuế này tác động đến thị trường, đến tâm lý nhà đầu tư như
thế nào? Bên cạnh mặt tích cực thì chính sách thuế còn có những hạn chế ra sao?
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thị trường chứng khoán và thuế thu nhập cá nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1
LỜI MỞ ĐẦU
Sau một năm hoãn thực hiện việc thu thuế thu nhập chứng khoán, đến nay, khi thị
trường bắt đầu quá trình phục hồi, từ ngày 1/1/2010, các hoạt động đầu tư, kinh doanh
chứng khoán, chuyển nhượng cổ phiếu… sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân. NĐT
được lựa chọn một trong hai phương thức nộp thuế, nộp theo thuế suất 20% trên thu
nhập tính thuế cả năm, nộp theo 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần.
Để xây dựng một thị trường chứng khoán phát triển trên Thế giới như hiện nay
phải mất cả trăm năm, trong khi đó TTCKVN mới chưa được 10 năm. Có thể nói
TTCKVN thời gian qua đã tăng trưởng khá nhanh và đạt được nhiều thành tích, khối
lượng giao dịch tăng, số NĐT tăng, tài khoản giao dịch tăng, nhưng nếu so với các
nước khác thì quy mô TTCKVN vẫn rất khiêm tốn. Hiện nay, số NĐT mở tài khoản
theo chúng tôi thống kê chưa được 1 triệu tài khoản, so với 80 triệu dân, nghĩa là chi
khoản 1%. Con số này còn quá nhỏ bé! Trung Quốc là nước khai trương thị trường
chứng khoán gần 20 năm, gần đây, năm 2008 mới đặt vấn đề thu thuế, khi số lượng tài
khoản giao dịch của họ đạt khoảng 10% dân số. Những nước tư bản phát triển cũng
vậy, họ chỉ đặt vấn đề thu thuế khi số lượng NĐT tham gia thị trường chứng khoán đạt
được tỷ lệ nhất định.
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là thuế TNCN đánh vào chứng khoán ở Việt Nam
được đưa ra vào thời điểm này liệu có phải là quá vội vàng, khi thị trường ở nước ta
còn quá non trẻ. Từ thời điểm triển khai dự luật thuế đã có nhiều ý kiến đưa ra trái
chiều nhau. Và nhiều câu hỏi được đặt ra. Chính sách thuế TNCN đánh vào chứng
khoán có thật sự hoàn thiện, mức thu, phương thức thu, thời điểm thu đã hợp lý chưa.
Việc áp dụng chính sách thuế này tác động đến thị trường, đến tâm lý nhà đầu tư như
thế nào? Bên cạnh mặt tích cực thì chính sách thuế còn có những hạn chế ra sao?
2
CHƯƠNG 1 :
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.Tổng quan về thị trường chứng khoán :
1.1. Khái niệm :
Thị trường chứng khoán là thị trường mà nơi đó diễn ra hoạt động giao dịch mua
bán, chuyển nhượng, trao đổi các loại chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Đây là nơi chắp nối quan hệ cung - cầu vốn đầu tư trung, dài hạn của nền kinh tế
quốc dân và quốc tế; là nơi gặp gỡ, giao dịch giữa những người cần huy động vốn đầu
tư (người phát hành chứng khoán) với những người có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư
(người mua chứng khoán) cũng như giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với nhau.
Thị trường chứng khoán cũng được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao
dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị
trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát
hành và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được
phát hành ở thị trường sơ cấp.
Thị trường chứng khoán là một hiện tượng lịch sử xuất hiện cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường. Cũng như các thị trường khác, thị trường chứng khoán
cũng qua những bước phát triển sơ khai ban đầu, sau đó ngày càng đa dạng, phức tạp
dần theo sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội. Đây là thị trường lưu hành các
loại hàng hóa đặc biệt là chứng khoán. Sự khác biệt cơ bản đó làm cho nguyên tắc, tổ
chức, quản lý thị trường chứng khoán cũng có sự khác biệt so với các thị trường thông
thường.
Các công cụ đầu tư trên thị trường chứng khoán thường gặp: các cổ phiếu đầu tư,
trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương, các quyền lựa chọn, chứng khoán chính phủ
(tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu chính phủ…)
3
1.2. Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán :
a. Do yêu cầu của nền kinh tế:
Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế thị trường đã phát triển ở mức
độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức
mạnh cho thị trường - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền
kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hóa phát triển làm nảy sinh thị trường chứng
khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy nền
kinh tế hàng hóa phát triển.
b. Do yêu cầu của nhà nước:
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ
yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước, nhà
nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát hành kỳ
phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này được thuận
lợi hơn.
1.3. Phân loại thị trừơng chứng khoán:
a. Xét theo tiêu chí lưu thông chứng khoán:
Có thể phân ra thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp:
- Tại thị trường sơ cấp, các chứng khoán lần đầu tiên được bán cho các nhà đầu
tư nên còn được gọi là thị trường phát hành. Điều đó cũng có nghĩa: thông qua thị
trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới thực sự được chuyển cho nhà phát hành.
- Thị trường thứ cấp diễn ra các giao dịch chứng khoán chưa được thanh toán. Bộ
phận thị trường này không làm tăng nguồn vốn mới cho nền kinh tế nhưng có thể hoạt
động liên tục, tạo ra khả năng thanh khoản cho chứng khoán đã phát hành. Thị trường
thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúc đẩy sự tạo vốn cho các doanh nghiệp,
chính phủ và tạo ra các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư. Thông
qua thị trường thứ cấp, các bên tham gia đều mong muốn đạt tới hiệu ích kinh tế của
mình.
Hai bộ phận thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp có mối quan hệ nội tại, mật thiết:
thị trường sơ cấp là sơ sở, tiền đề; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị
trường sơ cấp thì không có chứng khoán để vận hành thị trường thứ cấp, ngược lại,
nếu không có thị trường thứ cấp sẽ khó khăn trong việc phát hành vì chứng khoán hầu
4
như không có khả năng thanh khoản vì chưa đến hạn thanh toán.
b. Xét theo phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán:
Bao gồm thị trường tập trung và không tập trung:
Thị trường chứng khoán tập trung: diễn ra các hoạt động mua hoặc bán
chứng khoán hoặc tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán được tồn tại
dưới hình thức phổ biến là Sở giao dịch chứng khoán hoặc các sàn giao dịch chứng
khoán. Đây là nơi các nhà môi giới kinh doanh chứng khoán gặp gỡ để đấu giá, thương
lượng mua bán chứng khoán cho khách hàng hay cho chính mình theo những nguyên
tắc và quy chế giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán đề ra trên cơ sở của luật chứng
khoán.
Thị trường không tập trung (thị trường OTC): là hoạt động giao dịch của
chứng khoán không thông qua Sở giao dịch chứng khoán mà thực hiện bởi các công ty
chứng khoán thành viên rải rác khắp nơi trên đất nước. Phương thức giao dịch thông
qua mạng điện tử và mạng vi tính.
Thị trường chứng khoán tập trung có giá trị như bộ mặt thị trường chứng khoán
quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng của các giao dịch có thể lựa
chọn. Hàng hóa của thị trường tập trung cũng là những hàng hóa có thể đánh giá có
chất lượng hơn so với hàng hóa của thị trường khác do tính có tổ chức của nó. Điều đó
cũng có nghĩa sự an toàn hay rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch
trên thị trường.
1.4. Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán:
a. Nhà phát hành:
Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán dưới
hình thức phát hành các chứng khoán.
Chính phủ và chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu chính phủ và trái
phiếu địa phương.
- Công ty: phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính như các quỹ đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ:
phát hành công cụ tài chính như: trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư…
b. Nhà đầu tư chứng khoán:
Những chủ thể có nhu cầu đầu tư bằng cách mua các loại chứng khoán trên thị
5
trường chứng khoán. Loại chủ thể đầu tư này rất đa dạng và đông đảo. Mục đích của
các nhà đầu tư cũng không giống nhau. Thường người ta chia nhà đầu tư thành hai
nhóm cơ bản:
- Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng
khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình
thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân
hàng thương mại và các công ty chứng khoán.
- Nhà đầu tư cá thể: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán
trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời.
Ngoài những chủ thể chủ yếu trên còn có thể có một số đối tượng khác như các
ngân hàng thương mại (tham gia với tư cách là trung gian thanh toán), các đại lý phát
hành chứng khoán…
c. Các công ty chứng khoán:
Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán có thể đảm nhận một
hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát
hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh.
d. Công ty quản lý quỹ:
Thực hiện quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ
đầu tư để phát hành chứng chỉ quỹ, qua đó hình thành nên các quỹ đầu tư hoạt động
trên thị trường chứng khoán với chức năng kinh doanh chứng khoán và quản lý doanh
mục đầu tư.
e. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán:
- Ủy ban chứng khoán nhà nước: là cơ quan thuộc chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích
của nhà đầu tư và đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, có hiệu quả
và phát triển bền vững.
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường giao dịch
tập trung và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng
khoán trên Sở giao dịch phù hợp với các quy định của luật pháp và Ủy ban chứng
khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: là tổ chức của các công ty chứng
khoán và các nhà kinh doanh chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích
6
cho các nhà đầu tư.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu giữ các
chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng
khoán.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao
dịch chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá
năng lực thanh toán các khoản vốn gốc, lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã
cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
1.5. Các quy định về phí đối với các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán:
Ngày 26/2/2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 27/2010/TT-BTC quy định
mức thu, chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng phí hoạt động chứng khoán áp dụng tại
các SGDCK và Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD), cụ thể :
Tại SGDCK: Phí đăng ký niêm yết lần đầu thu khi chấp thuận niêm yết chứng
khoán và không thu trong trường hợp chuyển đăng ký niêm yết giữa các SGDCK. M ức
phí niêm yết lần đầu là 10 triệu đồng/công ty niêm yết và lần niêm yết bổ sung tiếp
theo là 5 triệu đồng/lần niêm yết bổ sung.
Mức thu phí quản lý niêm yết hàng năm, tổ chức niêm yết có giá trị niêm yết
dưới 100 tỷ đồng là 15 triệu đồng, từ 100 tỷ đồng đến dưới 500 tỷ đồng là 20 triệu
đồng, trên 500 tỷ đồng là 20 triệu đồng + 0,001%/giá trị niêm yết (nhưng không vượt
quá 50 triệu đồng) phí quản lý niêm yết.
Đối với trái phiếu, chứng chỉ quỹ có giá trị niêm yết theo mệnh giá dưới 80 tỷ
đồng có mức thu phí là 15 triệu đồng, giá trị niêm yết từ 200 tỷ đồng trở lên có mức
thu là 20 triệu đồng + 0,001%/giá trị niêm yết nhưng không vượt quá 50 triệu đồng.
Đối với chứng khoán niêm yết: các thành viên giao dịch chứng khoán phải nộp
mức phí giao dịch 0,03%/giá trị giao dịch cho cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và
0,0075%/giá trị giao dịch cho trái phiếu. Đối với chứng khoán chưa niêm yết: các
thành viên giao dịch chứng khoán phải nộp mức phí giao dịch 0,02%/giá trị giao dịch
đối với cổ phiếu và 0,0075%/giá trị giao dịch cho trái phiếu.
Đối với trái phiếu chính phủ, Phí giao dịch repo trái phiếu kỳ hạn đến 2 tuần là
0,005% giá trị giao dịch, Phí giao dịch mua bán lại (giao dịch repo) trái phiếu kỳ hạn
7
trên 2 tuần là 0,0075%/giá trị giao dịch, Phí giao dịch thông thường (giao dịch
outright) là 0,0075%/giá trị giao dịch.
Đối với phí kết nối trực tuyến, phí kết nối lần đầu là 150 triệu đồng/thành viên,
Phí duy trì định kỳ hàng năm là 50 triệu đồng/thành viên/năm. Phí đấu thầu trái phiếu
Chính phủ là 0,15% tổng giá trị trái phiếu trúng thầu/tổ chức phát hành.
Tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán : Phí quản lý thành viên lưu ký là 40 triệu
đồng/thành viên/năm. Phí đăng ký chứng khoán lần đầu đối với giá trị đăng ký chứng
khoán dưới 80 tỷ đồng là 10 triệu đồng/lần; 15 triệu đồng khi giá trị đăng ký chứng
khoán từ 80 đến dưới 200 tỷ đồng và 20 triệu đồng khi giá trị đăng ký chứng khoán
trên 200 tỷ đồng. Nếu muốn đăng ký bổ sung phải nộp khoản phí 5 triệu đồng cho mỗi
lần bổ sung tiếp theo...
Đối tượng nộp phí là các CtyCK, ngân hàng lưu ký, công ty niêm yết và các cá
nhân thực hiện công việc liên quan đến các nghiệp vụ của thị trường giao dịch chứng
khoán. Thông tư này không quy định mức phí các CtyCK thu của NĐT.
Đối với các nhà đầu tư chứng khoán: hiện mức phí thường được các CTCK áp
dụng từ 0,25%, 0,2%, 0,15% tùy theo giá trị giao dịch và thời điểm giao dịch. Trong
giai đoạn thị trường chứng khoán ảm đạm và sức ép từ cạnh tranh từ các công ty
chứng khoán khác, đã dẫn đến một cuộc chạy đua giảm phí giao dịch giữa các công ty
chứng khoán trên thị trường. Cụ thể, giai đoạn cuối năm 2008, công ty chứng khoán
DNS áp dụng mức phí giao dịch 0.03%(mức mà nhà đầu tư phải nộp cho HOSE,
HASTC theo quy định) cho những khách hàng mở tài khoản. Cũng nằm trong diện
miễn phí, tất cả những khách hàng mở tài khoản mới tại công ty chứng khoán Âu Việt
cho đến hết năm 2008 cũng không phải trả phí giao dịch cho công ty…
2. Nội dung thuế TNCN từ chứng khoán:
2.1. Các văn bản hướng dẫn:
- Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007, Nghị định của Chính phủ
số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế
TNCN
- Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ tài chính hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thuế TNCN và hướng dẫn thi hành Nghị định số
8
100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật Thuế TNCN
- Thông tư số 62/2009/TT-BTC ngày 27/3/2009 của Bộ tài chính hướng dẫn sửa
đổi, bổ sung Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế TNCN và hướng dẫn thi hành Nghị định số
100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật Thuế TNCN
- Thông tư số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009 của Bộ tài chính Hướng dẫn
miễn thuế TNCN năm 2009 theo Nghị quyết số 32/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của
Quốc hội
2.2. Đối tượng nộp thuế: các nhà đầu tư, kinh doanh trên thị trường chứng khoán
2.3. Cơ sở tính thuế:
2.3.1. Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán : Thu nhập từ chuyển nhượng
chứng khoán bao gồm thu nhập từ việc chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ và các loại chứng khoán khác theo quy định của Luật Chứng khoán.
2.3.2. Thu nhập từ đầu tư vốn:
- Thu nhập từ cổ tức: Cổ tức được chi trả bằng tiền mặt, cổ phiếu hoặc nhận cổ
phiếu thưởng.
- Thu nhập nhận được từ các khoản lãi trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá
khác do các tổ chức trong nước phát hành (kể cả các tổ chức nước ngoài được phép
thành lập và hoạt động tại Việt Nam), trừ thu nhập từ lãi trái phiếu do Chính phủ Việt
Nam phát hành.
2.4. Kỳ tính thuế:
2.4.1. Đối với cá nhân cư trú:
- Thu nhập từ đầu tư vốn: kỳ tính thuế theo từng lần phát sinh thu nhập
- Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán: kỳ tính thuế theo từng lần chuyển
nhượng hoặc theo năm.
2.4.2. Đối với cá nhân không cư trú: chỉ được tính theo từng lần phát sinh thu nhập.
9
2.5. Thuế suất:
2.5.1. Đối với cơ sở tính thuế là thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán: nhà đầu
tư có thể lựa chọn một trong hai phương pháp nộp thuế sau:
- Nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán theo thuế
suất 20% (tính thuế theo năm)
- Nộp thuế TNCN theo thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán
(tính thuế theo từng lần chuyển nhượng)
2.5.2. Đối với cơ sở tính thuế là thu nhập từ đầu tư vốn:
- Áp dụng mức thuế suất 5%.
- Nếu cổ tức được chi trả bằng cổ phiếu hoặc nhận cổ phiếu thưởng, khi chuyển
nhượng số cổ phiếu này, thuế suất được áp dụng giống trường hợp cơ sở tính thuế là
thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán.
2.6. Cách tính thuế:
2.6.1. Cách tính thuế đối với cá nhân cư trú:
2.6.1.1. Thuế TNCN từ chuyển nhượng chứng khoán:
a. Nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán theo thuế
suất 20%:
Nhà đầu tư lựa chọn phương pháp nộp thuế này phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Phải đăng ký phương pháp nộp thuế với cơ quan thuế trực tiếp quản lý Công ty
chứng khoán mà nhà đầu tư đăng ký giao dịch hoặc Chi cục Thuế nơi nhà đầu tư cư
trú, theo mẫu số 15/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 84/2008/TC-BTC
trước ngày 31 tháng 12 của năm trước.
- Thực hiện đăng ký thuế và có mã số thuế.
- Thực hiện chế độ kế toán hóa đơn chứng từ, xác định được thu nhập tính thuế
từ việc chuyển nhượng chứng khoán theo quy định.
- Việc áp dụng thuế suất 20% tính trên tổng các loại chứng khoán đã giao dịch
trong năm dương lịch.
Thuế TNCN được tính như sau:
Thuế TNCN phải nộp = Thu nhập tính thuế x Thuế suất 20%
10
Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng chứng khoán được xác định bằng (=) giá
bán chứng khoán trừ (-) giá mua, các chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng chứng
khoán.
Mặc dù chuyển nhượng chứng khoán đã đăng ký nộp thuế theo thuế suất 20%
vẫn phải tạm nộp thuế theo thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng
lần.
Giá bán chứng khoán được xác định như sau:
- Đối với chứng khoán niêm yết: giá bán chứng khoán là giá chuyển nhượng thực
tế trên thị trường chứng khoán tại thời điểm bán. Giá thị trường tại thời điểm bán là giá
khớp lệnh do Sở giao dịch chứng khoán công bố.
- Đối với chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết nhưng đã thực hiện
đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thì giá bán chứng khoán là giá
chuyển nhượng thực tế tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- Đối với cổ phiếu chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán nhưng công ty phát hành cổ phiếu uỷ quyền hay không ủy quyền cho
công ty chứng khoán quản lý danh sách cổ đông thì giá chuyển nhượng cổ phiếu làm
căn cứ để khấu trừ thuế được căn cứ theo giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng.
Trường hợp trên hợp đồng không ghi giá thì căn cứ để khấu trừ thuế là giá chuyển
nhượng do người chuyển nhượng tự khai. Cá nhân chuyển nhượng cổ phiếu không ghi
giá trên hợp đồng tự khai giá chuyển nhượng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác
của nội dung kê khai. Trường hợp cơ quan thuế có căn cứ xác định giá ghi trên hợp
đồng hoặc giá tự khai là không đúng thực tế thì cơ quan thuế được quyền ấn định giá
chuyển nhượng để tính lại số thuế phải nộp đồng thời phạt về hành vi gian lận thuế
theo quy định của Luật quản lý thuế.
Giá mua chứng khoán được xác định như sau:
- Đối với chứng khoán niêm yết: giá mua chứng khoán là giá thực tế mua tại Sở
giao dịch chứng khoán.
- Đối với chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết nhưng đã thực hiện
đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thì giá mua chứng khoán là giá
thực tế mua tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- Đối với chứng khoán mua thông qua đấu giá thì giá mua là giá trúng đấu giá.
11
- Đối với chứng khoán không thuộc các trường hợp nêu trên: Giá mua chứng
khoán là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng hoặc giá theo sổ sách kế