Tiểu luận Thông qua các sự kiện lịch sử 1930-1945, chứng minh rằng Cách mạng Tháng 8 thành công là nhờ có sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, góp phần cùng Đồng Minh dân chủ quốc tế đánh bại chủ nghĩa phát-xít, kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, đem lại hòa bình cho toàn thể nhân loại. Cách mạng Tháng Tám còn góp phần tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách và những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử cũng như thời đại, từ thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tới chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, tới chiên thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố tất yếu trong mọi chiến thắng của dân tộc ta. Đảng ra đời đảm nhận sứ mệnh lảnh đạo của cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Trong những thời gian đầu mới thành lập cơ sở đảng tuy chưa nhiều, song đã trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng. Những tổ chức quần chúng cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Đưòng lối của đảng đã phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng, được tuyên truyền rộng rải, làm cho ý thức giác ngộ của quần chúng ngày càng được nâng cao. I- Mở đầu 1- Lý do chọn đề tài Để có được cuộc sống độc lập, ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay nhân dân ta đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biến cố, đã hi sinh biết bao xương máu Chính vì thế là người dân Việt Nam, tự hào vì những trang sử vàng của dân tộc và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của nhân dân ta.Là những thế hệ mới của đất nước sinh ra không phải chịu cảnh chiến tranh khốc liệt, được hưởng những thành quả từ mồ hôi xương máu của cha ông mình tạo ra. Tự nhận thấy mình cần phải hiểu biết rõ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông mình và cố gắng học tập, rèn luyện góp phần xây dựng đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa phát triển. Vì nội dung lịch sử đa dạng, em xin được tập trung nghiên cứu đề tài: “Thông qua các sự kiện lịch sử 1930-1945, chứng minh rằng Cách mạng tháng 8 thành công là nhờ có sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng” 2- Mục đích của đề tài Nghiên cứu đề tài này nhằm trang bị cho em vốn kiến thức về lịch sử dân tộc và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết của nhân dân ta. 3- Ý nghĩa của đề tài Cho thấy được sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hiểu được quá trình đấu tranh giành chính quyền của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua đó rút ra được nguyên nhân thắng lợi,bài học kinh nghiệm cho Đảng từng bước lớn mạnh đồng thời cũng rút ra được kinh nghiệm ,bài học của bản thân trong thời kì mới . Thấy được sự gian nan vất vả ,sự hi sinh to lớn của ông ta cha để làm nên những trang sử hào hùng cho tổ quốc ,làm cho bản thân càng thêm tự hào khi mang trongdòng máu Việt Nam .Thấy được vai trò và sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc, đó là một trongnhững nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của mọi cuộc đấu tranh.Mỗi bản thân tự nhủ ,tự phấn đấu trong thời kì mới để tiếp bước cha ông trên con đường xây dựng Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 4- Phương pháp nghiên cứu Dựa vào các tài liệu trên sách , báo và internet, tổng hợp và phân tích chọn lọc những thông tin cần thiết, kết hợp với các kiến thức ghi chép được khi nghe giảng bài trên lớp

doc11 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11522 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thông qua các sự kiện lịch sử 1930-1945, chứng minh rằng Cách mạng Tháng 8 thành công là nhờ có sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục Lời mở đầu Mở đầu Lý do chọn đề tài Mục đích của đề tài Ý nghĩa của đề tài Phương pháp nghiên cứu Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám 1. Ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của Ðảng Các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc Những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước Quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Ðảng toàn quốc tháng 8-1945. 2.Đảng từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến chỗ xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc Thực thi quyền dân tộc tự quyết của ba nước Đông Dương Bố trí thế trận cách mạng và sắp xếp lực lượng cách mạng phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ máu Kết luận Tài liệu tham khảo Lời mở đầu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, góp phần cùng Đồng Minh dân chủ quốc tế đánh bại chủ nghĩa phát-xít, kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, đem lại hòa bình cho toàn thể nhân loại. Cách mạng Tháng Tám còn góp phần tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách và những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử cũng như thời đại, từ thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tới chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, tới chiên thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố tất yếu trong mọi chiến thắng của dân tộc ta. Đảng ra đời đảm nhận sứ mệnh lảnh đạo của cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Trong những thời gian đầu mới thành lập cơ sở đảng tuy chưa nhiều, song đã trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng. Những tổ chức quần chúng cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Đưòng lối của đảng đã phản ánh đúng nguyện vọng của quần chúng, được tuyên truyền rộng rải, làm cho ý thức giác ngộ của quần chúng ngày càng được nâng cao. Mở đầu Lý do chọn đề tài Để có được cuộc sống độc lập, ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay nhân dân ta đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biến cố, đã hi sinh biết bao xương máu… Chính vì thế là người dân Việt Nam, tự hào vì những trang sử vàng của dân tộc và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của nhân dân ta.Là những thế hệ mới của đất nước sinh ra không phải chịu cảnh chiến tranh khốc liệt, được hưởng những thành quả từ mồ hôi xương máu của cha ông mình tạo ra. Tự nhận thấy mình cần phải hiểu biết rõ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông mình và cố gắng học tập, rèn luyện góp phần xây dựng đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa phát triển. Vì nội dung lịch sử đa dạng, em xin được tập trung nghiên cứu đề tài: “Thông qua các sự kiện lịch sử 1930-1945, chứng minh rằng Cách mạng tháng 8 thành công là nhờ có sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng” Mục đích của đề tài Nghiên cứu đề tài này nhằm trang bị cho em vốn kiến thức về lịch sử dân tộc và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết của nhân dân ta. Ý nghĩa của đề tài Cho thấy được sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hiểu được quá trình đấu tranh giành chính quyền của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua đó rút ra được nguyên nhân thắng lợi,bài học kinh nghiệm cho Đảng từng bước lớn mạnh đồng thời cũng rút ra được kinh nghiệm ,bài học của bản thân trong thời kì mới . Thấy được sự gian nan vất vả ,sự hi sinh to lớn của ông ta cha để làm nên những trang sử hào hùng cho tổ quốc ,làm cho bản thân càng thêm tự hào khi mang trongdòng máu Việt Nam .Thấy được vai trò và sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc, đó là một trongnhững nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của mọi cuộc đấu tranh.Mỗi bản thân tự nhủ ,tự phấn đấu trong thời kì mới để tiếp bước cha ông trên con đường xây dựng Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu Dựa vào các tài liệu trên sách , báo và internet, tổng hợp và phân tích chọn lọc những thông tin cần thiết, kết hợp với các kiến thức ghi chép được khi nghe giảng bài trên lớp Vai trò của Đảng trong sự thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến Cách mạng Tháng Tám thành công là do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đứng trên lập trường giai cấp công nhân, vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc và dũng khí đấu tranh anh hùng, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Nói cách khác, là do Đảng ta đã biết kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn tính giai cấp với tính dân tộc của cuộc cách mạng. Do chưa nhận thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc của Cách mạng Tháng Tám nên một số học giả nước ngoài đã không thấy hết vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng, cuộc cách mạng này nổ ra là do có "sự ăn may", do lúc đó ở Đông Dương có "khoảng trống quyền lực" (Pháp chạy, Nhật hàng, quân Đồng Minh chưa tới) nên Việt Minh mới dễ dàng giành thắng lợi. Một sự thật hiển nhiên mà nhiều nhà khoa học đã chứng minh là, trong hơn 80 năm đấu tranh chống thực dân Pháp, hàng chục cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt của nhân dân Việt Nam nổ ra nhưng vẫn chưa giành được thắng lợi. Nguyên nhân chủ yếu là do các cuộc đấu tranh đó chưa có một giai cấp tiền phong lãnh đạo, chưa có lý luận cách mạng soi đường, cũng như chưa có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, đủ sức giành thắng lợi trước những kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát-xít. Nhưng, còn một sự thật lịch sử nữa phải được làm rõ là, muốn đưa cách mạng đến thành công, không chỉ cần có một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mà còn cần có một đảng biết vượt qua bao thử thách, gay go, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm để từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược. Ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của Ðảng Các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc Các Hội nghị Trung ương Ðảng (11-1939), (11-1940) và nhất là Hội nghị Trung ương tám (5-1941) đã đề ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Trung ương 11-1939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên". "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập" (2). Hội nghị Trung ương tám do Hồ Chí Minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta" (3). "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" (4). Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội nghị Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Ðông Dương thì Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập Mặt trận riêng của Việt Nam đó là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và bao gồm các đoàn thể cứu quốc. Ðảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách đưa quan điểm, chính sách vào các đoàn thể và hoạt động của Mặt trận và thông qua các đảng viên tham gia Mặt trận và đoàn thể. Ba là, Ðảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Ðảng chủ trương phát triển lực lượng vũ trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng chính trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề về chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt ra và thực hiện ở vùng căn cứ địa cách mạng. Bốn là, Ðảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị Trung ương (11-1939) đã chủ trương: dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang". Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể "lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn" (5). Các hội nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích tình hình chiến tranh thế giới, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng Ðảng để Ðảng có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc. Những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ, Ðảng và Mặt trận Việt Minh đã chủ trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm võ khí đuổi thù chung. Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh. Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944). Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Ðông Dương. Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch sử: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là Ðánh đuổi phát-xít Nhật. Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ðây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp. Sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời cơ cách mạng và cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù hoang mang không rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng căm ghét quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết liệt; Ðồng minh sẽ đổ bộ vào Ðông Dương để đánh Nhật. Ðó là sự vận dụng tư tưởng của Mác và Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều kiện để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đã là định hướng quan trọng để các đảng bộ địa phương chủ động phát động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị còn chủ trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng). Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Tháng 4-1945 các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 4-6-1945, thành lập khu giải phóng Việt Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ địa của cách mạng cả nước, hình ảnh của nước Việt Nam mới. Tổ chức Việt Minh phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở căn cứ địa, ở vùng nông thôn mà phong trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là phong trào công nhân, học sinh, sinh viên trí thức. Theo tư tưởng của Ðề cương văn hóa 1943 của Ðảng, tổ chức văn hóa cứu quốc đã tập hợp đông đảo các nhà văn hóa vào trận tuyến đấu tranh cách mạng của dân tộc. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên Quang. Tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Ðảng họp ngày 14 và 15-8-1945. Hội nghị của Ðảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào cách mạng của toàn dân ta diễn ra sôi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô điều kiện (15-8). Ðảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới" . Mục đích cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: Tập trung -tập trung lực lượng vào những việc chính; Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu đấu tranh của Ðảng là Phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Hội nghị Ðảng toàn quốc công bố mười chính sách của Việt Minh và nhấn mạnh chủ trương "Lập nên một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập" Quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị Ðảng toàn quốc tháng 8-1945. Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Ngày 16-8-1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn quốc và thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thường trực Ủy ban gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Ðức Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Ủy ban dân tộc giải phóng là tổ chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Nghị quyết của Quốc dân Ðại hội nhấn mạnh mục tiêu: "Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập". Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Khi nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Ðảng, cần phải thấy rõ tinh thần trách nhiệm cao, sự năng động, chủ động, sáng tạo của các đảng bộ địa phương, tức các xứ ủy, tỉnh ủy, huyện ủy và tổ chức đảng ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) và cả những tỉnh xa xôi, điều kiện liên lạc khó khăn đã thể hiện điều đó. Vai trò của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, của các đảng viên kiên trung của Ðảng, từ người lãnh đạo cao nhất đến người đảng viên ở cơ sở, đã bảo đảm cho Ðảng sự lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất ở giờ phút quyết định của lịch sử. Đảng từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác nhận, để đi đến thành công của Cách mạng Tháng Tám, Đảng phải trải qua ba cuộc vận động cách mạng khó khăn, gian khổ. Đó là: - Cuộc vận động những năm 1930 - 1935 mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và thoái trào cách mạng (1932 - 1935). - Cuộc vận động những năm (1936 - 1939), với cao trào Mặt trận Dân chủ năm 1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất do cuộc khủng bố của địch gây ra để đi tiếp chặng đường mới. - Cuộc vận động những năm 1939 - 1945, Đảng đã sáng suốt phát triển cả lực lượng chính trị lẫn lực lượng vũ trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ động nắm bắt thời cơ mới để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Chính nhờ trải qua ba cuộc vận động đó, Đảng từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược. Điều đó biểu hiện ở một số vấn đề cơ bản sau: 1 . Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến chỗ xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc Đây là cả một chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy không đơn giản. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930 nêu rõ: "Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa" (1). Phong trào đấu tranh của quần chúng năm 1930 - 1931 cũng nổi lên với khẩu hiệu "Đả thực, bài phong", không chỉ chống đế quốc xâm lược mà còn đả đảo cả "Trí, phú, địa, hào". Chuyển sang thời kỳ những năm 1936 - 1939, trước nguy cơ phát-xít, Đảng thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm kết hợp đấu tranh dân tộc với đấu tranh dân chủ để chống phát-xít. Điều đó bước đầu tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, biểu hiện ở cuộc mít tinh đồ sộ với hơn hai vạn người tham dự ở nhà Đấu xảo Hà Nội, ngày 1-5-1938. Đến giữa năm 1939, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, các nước đế quốc xâu xé lẫn nhau, thời cơ giải phóng dân tộc sẽ đến, Đảng thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm thời hạ thấp khẩu hiệu phản phong. Tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Đảng ta chỉ rõ: "Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa... Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát-xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết" (2). Nhờ vậy, chỉ trong thời gian ngắn, một làn sóng cách mạng phản đế đã dấy lên, tiêu biểu là ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, làm rung động bộ máy thực dân. Tháng 6-1941, Liên Xô tuyên chiến với Đức. Sau đó, Đồng Minh quốc tế chống phát-xít gồm Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ ra đời. Ở Việt Nam, thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần. Đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (họp ở Pắc Bó, Cao Bằng). Tại Hội nghị này, Đảng đã hoàn thiện thêm một bước nữa việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thay khẩu hiệu "Phản đế" (của Hội nghị Trung ương 6) hay "Phản đế cứu quốc" (của Hội nghị Trung ương 7) bằng khẩu hiệu "Cứu quốc". Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: "Chính sách của Đảng ta hiện nay là chính sách cứu quốc, cho nên mục đích của các hội quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu... Công hội từ nay lấy tên là Công nhân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy những người thợ Việt Nam muốn tranh đấu đánh Pháp - Nhật, lại có thể thu nạp hết cả những hạng cai ký, đốc công trong xưởng mà những công hội trước kia không hề tổ chức. Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp - Nhật" (3). Đồng thời, Mặt trận Dân
Luận văn liên quan