Tiểu luận Thực hiện các yêu cầu kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam

Nguyên lý kế toán là cơ sở, nền tảng quan trọng nhất của khoa học kế toán nói riêng và khoa học kinh tế nói chung. Trong giai đọan hội nhập kinh tế hiện nay, nhân viên kế toán luôn phải học hỏi, cập nhật kiến thức để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quản lý. Các thông tin trong báo cáo tài chính không chỉ giới hạn trong việc lập theo đúng các quy định hiện hành, chuẩn mực về kế toán, mà còn đòi hỏi phát huy được vai trò kế toán là “ngôn ngữ của thế giới kinh doanh”. Để có thể tiến hành họat động kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có một số vốn nhất định biểu hiện nguồn lực kinh tế - tài sản sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, các giao dịch kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp họặc giữa doanh nghiệp với các cá nhân, nhà nước và doanh nghiệp khác được thực hiện, và kết quả là làm cho tài sản của doanh nghiệp thường xuyên biến động. Nhiệm vụ của kế toán là phải phản ánh và giám đốc được những thay đổi này. Muốn vậy, kế toán phải quan sát, theo dõi và quản lý được các quá trình kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin về tình hình họat động của doanh nghiệp.

doc66 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2540 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực hiện các yêu cầu kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian tìm tòi tài liệu trong thư viện trường Đại học Công Nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, phòng Đa phương tiện, các phương tiện thông tin đại chúng, sự hướng dẫn của giảng viên Nguyễn Thị Thu Hoàn chúng em đã hoàn thành xong đề tài tiểu luận “Thực hiện các yêu cầu kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam”. Thông qua bài tiểu luận này, chúng em đã phần nào hiểu thêm về lý thuyết các yêu cầu kế toán của bộ môn Nguyên lý kế toán cũng như thực tiễn áp dụng các yêu cầu kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam, hiểu hơn về ngôi trường mình đang học để chúng em càng thêm yêu Đại Học Công Nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt thông qua quá trình làm bài tiểu luận đã giúp chúng em có những kỹ năng ban đầu trong việc tìm tòi tài liệu, kỹ năng phân tích tài liệu, kỹ năng làm việc theo nhóm, đồng thời giúp các bạn trong nhóm gần gũi và hiểu nhau hơn, tạo động lực giúp đỡ nhau trong quá trình học tập sau này. Một lần nữa, chúng em xin chân thành cảm ơn: Trường ĐH Công Nghiệp TP.HCM đã tạo môi trường thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu làm tiểu luận. Khoa: KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN đã trang bị cho chúng em những kiến thức về bộ môn Nguyên lý kế toán. Cô Nguyễn Thị Thu Hoàn - giảng viên bộ môn Nguyên lý kế toán đã giúp đỡ và hướng dẫn chúng em tận tình cách làm tiểu luận. Thư viện trường đã cung cấp những tài liệu cần thiết, là nơi chúng em thảo luận và học tập. Thay mặt nhóm, Nhóm trưởng: Bùi Văn Tiệp Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01/2010 Nhận xét của giảng viên hướng dẫn: MỤC LỤC Lời mở đầu 4 Phần I: Cơ sở lý luận về các yêu cầu kế toán 5 I.1 Yêu cầu chung đối với Kế toán 5 I.2 Yêu cầu cơ bản đối với Kế toán 6 Phần II: Thực trạng thực hiện các yêu cầu kế toán tại các doanh nghiệp VN. 8 II.1 Các luận điểm về tính hữu ích của bản báo cáo tài chính 8 II.2 Tính trung thực và hợp lý(1) 14 II.3 Động lực thổi phồng báo cáo tài chính(2) 15 II.4 Tình trạng chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán của nhiều DN(3) 17 II.5 Nguyên nhân lập báo cáo tài chính hợp nhất chưa thành công(4) 21 II.6 Các màn phù phép trong báo cáo tài chính 23 II.7 Tính trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận 29 II.8 Báo cáo tài chính cần nhất sự minh bạch 35 II.9 Báo cáo tài chính phơi bày hay che giấu(5) 38 II.10 Điểm ngoại trừ trong báo cáo tài chính(6) 41 II.11 Chất lượng các báo cáo tài chính chưa kiểm toán sai khá nhiều so với báo cáo kiểm toán(7) 43 II.12 Khó đo lường độ trung thực của bản cáo bạch 45 II.13 Tính trung thực báo cáo tài chính năm 2008 chưa được cải thiện(8) 46 II.14 Thực trạng công tác lập báo cáo tài chính hợp nhất tại các tập đoàn kinh tế Việt Nam 49 II.15 Đối phó và hệ lụy trong công tác kế toán tại các DN Việt Nam 51 II.16 Ví dụ về báo cáo của HSBC chỉ mang tính minh họa 53 II.17 Tác hại của sự sai lệch trong báo cáo tài chính 55 II.18 Biện pháp hạn chế việc phù phép báo cáo tài chính 57 II.19 Cách tăng tính thuyết phục cho bản báo cáo tài chính 57 II.20 Tích cực của các màn phù phép trong báo cáo tài chính(9) 60 Phần III: Kết luận 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 66 Nguyên lý kế toán là cơ sở, nền tảng quan trọng nhất của khoa học kế toán nói riêng và khoa học kinh tế nói chung. Trong giai đọan hội nhập kinh tế hiện nay, nhân viên kế toán luôn phải học hỏi, cập nhật kiến thức để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quản lý. Các thông tin trong báo cáo tài chính không chỉ giới hạn trong việc lập theo đúng các quy định hiện hành, chuẩn mực về kế toán, mà còn đòi hỏi phát huy được vai trò kế toán là “ngôn ngữ của thế giới kinh doanh”. Để có thể tiến hành họat động kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có một số vốn nhất định biểu hiện nguồn lực kinh tế - tài sản sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, các giao dịch kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp họặc giữa doanh nghiệp với các cá nhân, nhà nước và doanh nghiệp khác được thực hiện, và kết quả là làm cho tài sản của doanh nghiệp thường xuyên biến động. Nhiệm vụ của kế toán là phải phản ánh và giám đốc được những thay đổi này. Muốn vậy, kế toán phải quan sát, theo dõi và quản lý được các quá trình kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin về tình hình họat động của doanh nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu này, người làm kế toán phải nắm rất vững các quy định hiện hành về kế toán - tài chính để không chỉ tuân thủ đúng mà còn phải biết vận dụng các quy định này một cách linh hoạt nhằm đảm bảo Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin hữu ích nhất. Chính vì vậy, nhóm em đã quyết định chọn đề tài trên để đi sâu tìm hiểu về các yêu cầu kế toán và thực tiễn áp dụng chúng tại các doanh nghiệp Việt Nam dựa trên những kiến thức tiếp thu được từ bài giảng tận tình của cô và sự nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi và hợp tác của tất cả các thành viên trong nhóm. Dù đã rất cố gắng nhưng bài tiểu luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, chúng em mong nhận được sự góp ý và chỉnh sửa của cô để bài tiểu luận được hòan thiện hơn. Chúng em chân thành cám ơn cô. Phần I: Cơ sở lý luận về các yêu cầu kế toán I.1 Yêu cầu chung đối với Kế toán Để đáp ứng được vai trò và nhiệm vụ của kế toán thì số liệu của kế toán phải thoả mãn các yêu cầu sau: I.1.1 Phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính. Để đánh giá được toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì đòi hỏi số liệu của kế toán cung cấp phải phản ánh đầy đủ sự hoạt động đó, nếu phản ánh thiếu sót một mặt nào đó thì việc đánh giá không đạt được những yêu cầu như mong muốn nhiều khi còn sai lệch nữa. I.1.2 Phản ánh kịp thời, đúng thông tin, đúng thời gian qui định thông tin, số liệu kế toán. Muốn cung cấp số liệu kế toán kịp thời cho việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì ghi chép các hoạt động của doanh nghiệp cũng phải kịp thời có nghĩa là nghiệp vụ kinh tế phát sinh lúc nào thì ghi sổ lúc đó. I.1.3 Phản ánh rõ ràng, dễ hiểu và chính xác thông tin, số liệu kế toán. Số liệu kế toán được tổng hợp từ các sổ kế toán vào sổ báo cáo tài chính để từ đó đánh giá toàn bộ tình hình hoạt động của doanh nghiệp, do vậy yêu cầu ở đây là việc tổng hợp phải được trình bày rõ ràng dễ hiểu và chính xác bằng con số trên các tài liệu kế toán và phải có thuyết minh để mọi người có thể biết được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh đó của doanh nghiệp I.1.4 Phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế tài chính. Số liệu của kế toán phản ánh thực trạng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để biết thực trạng đó như thế nào đòi hỏi số liệu của kế toán phải phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất của sự việc, thí dụ như doanh thu trong kì là bao nhêiu, chi phí là bao nhiêu, lãi (lỗ) là bao nhiêu. I.1.5 Thông tin, số liệu kế toán phải phản ánh liên tục từ khi phát sinh đến khi kết thúc hoạt động kinh tế - tài chính từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động của đơn vị kế toán, số liệu kế toán phản ánh kì này phải kế tiếp theo số liệu kế toán của kì trước. I.1.6 Phân loại, sắp xếp thông tin số liệu kế toán theo trình tự, có hệ thống và có thể so sánh được. Trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều phải xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, các chỉ tiêu này là các chỉ tiêu dự kiến. Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, số liệu kế toán phản ánh được việc thực hiện kế hoạch đó như thế nào, người quản lí so sánh giữa số liệu thực tế và số liệu kế hoạch, muốn so sánh được thì số liệu kế toán tổng hợp thành các chỉ tiêu phải mang tính thống nhất về nội dung và phương pháp tính toán với các chỉ tiêu kế hoạch. I.2 Yêu cầu cơ bản đối với Kế toán Với vai trò của kế toán và để thực hiện những nhiệm vụ kế toán theo quy định chuẩn mực chung, ban hành và công bố theo Quyết định 165 ngày 31/12/2002, kế toán cần phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản như sau: I.2.1 Trung thực: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Yêu cầu này đòi hỏi kế toán phải phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá trị sự nghiệp kinh tế phát sinh. I.2.2 Khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bi bóp méo. Yêu cầu này đòi hỏi kế toán phải tuân thủ theo những nguyên tắc và chuẩn mực kế toán một cách khách quan, không làm sai lệch theo chủ quan của người xử lý thông tin và số liệu kế toán. I.2.3 Đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót. Yêu cầu này đòi hỏi kế toán phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính nhằm đảm bảo các thông tin, số liệu phản ánh được toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp thông tin đầy đủ, hữu ích, không sai lệch phục vụ cho việc điều hành, quản lý, bảo vệ tài sản,… kế toán phải ghi nhận và báo cáo đầy đủ, không bỏ sót bất kỳ nghiệp vụ kinh tế phát sinh nào trong kỳ kế toán. I.2.4 Kịp thời: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ. Thông tin được cung cấp kịp thời, không chậm trễ giúp cho nhà quản lý và các đối tượng khác nắm bắt thời cơ và xử lý thông tin kịp thời, có những quyết định đúng đắn trong mọi tình huống kinh doanh của đơn vị. I.2.5 Dễ hiểu: Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong báo cáo tài chính phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh doanh, về kinh tế, tài chính, kế toán ở mức trung bình. Thông tin về những vấn đề phức tạp trong báo cáo tài chính phải được giải trình trong phần thuyết minh. I.2.6 Có thể so sánh: Các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh khi tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải gỉai trình trong phần thuyết minh để người sử dụng báo cáo tài chính có thể so sánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp hoặc giữa thông tin thực hiện với thông tin dự toán, kế hoạch. Yêu cầu này đòi hỏi kế toán phải phản ánh đúng nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên chứng từ và việc ghi chép vào sổ kế toán phải dựa trên cơ sở chứng từ đã được lập một cách chính xác. Đồng thời phải đảm bảo được thông tin, số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục từ khi phát sinh đến khi kết thúc hoạt động kinh tế, tài chính, cũng như từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động của đơn vị kế toán; số liệu kế toán phản ánh kỳ này phải tiềp theo số liệu kế toán của kỳ trước. Mặt khác kế toán phải phân loại, sắp xếp thông tin, số liệu kế toán theo trình tự, có hệ thống để có thể so sánh được. Phần II: Thực trạng thực hiện các yêu cầu kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam. II.1 Các luận điểm về tính hữu ích của bản báo cáo tài chính Mục tiêu của Báo cáo tài chính (BCTC) là cung cấp các thông tin tài chính hữu ích cho người sử dụng trong việc ra quyết định kinh tế. Tuy nhiên, khi các nguyên tắc, yêu cầu, hướng dẫn lập và trình bày BCTC không rõ ràng và đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, hay khó áp dụng, sẽ không đảm bảo được các tính chất (đáng tin cậy, có thể hiểu, so sánh được…), BCTC vì thế trở nên kém hữu ích. Thông tin tài chính hữu ích là đối tượng được quan tâm đặc biệt của nhiều tổ chức nghề nghiệp, nhà nghiên cứu, thực hành kế toán trên thế giới trong nhiều năm qua, với nhiều giác độ tiếp cận khác nhau. Quan điểm của Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Tài chính Mỹ (FASB) Khái niệm số 1 (1980), viết tắt là CON1, đoạn 32 nêu rõ: "các đặc trưng của thông tin giúp nó trở nên quý giá để dẫn dắt việc lựa chọn các chính sách kế toán được ưu tiên từ những phương án sẵn có. Chúng có thể được xem như một hệ thống thứ bậc các tính chất kế toán, hữu ích để ra quyết định trong những tình huống quan trọng." Để trở nên hữu ích, thông tin tài chính phải thể hiện được từng tính chất trong một chừng mực tối thiểu. Mặc dù trong hệ thống có sự phân định giữa các tính chất sơ cấp và các tính chất khác nhưng không tính chất nào được chỉ định là ưu tiên hơn; hơn nữa, một loại tính chất nào đó có thể bị hy sinh để có được những tính chất khác mà không làm giảm sự hữu ích của thông tin (CON2, đoạn 31). Thông tin kế toán khi được định hướng đến người sử dụng để ra quyết định trên cơ sở đáp ứng các tính chất làm cho trở nên hữu ích, nhưng tiến trình này đã gặp phải hai trở ngại quan trọng: Áp lực về cân đối lợi ích- chi phí: Việc cung cấp thông tin tài chính tiêu tốn nhiều chi phí để thu nhập, xử lý, soạn thảo các BCTC hoặc cho kiểm toán; hơn nữa còn phải xem xét các chi phí phát sinh từ phía người sử dụng như thu thập, phân tích, hay loại bỏ những thông tin thừa. Trong khi lợi ích mang lại từ thông tin, chẳng hạn sự đáp ứng một yêu cầu pháp lý, thương mại, hay củng cố hình ảnh tài chính của doanh nghiệp, tạo niềm tin cho khách hàng và giới đầu tư (đối với người soạn thảo), hoặc có thể là những kết quả phân tích, dự báo phù hợp và đáng tin cậy cho việc ra quyết định (đối với người sử dụng thông tin)…có thể không tương xứng với số tiền đã bỏ ra. Nói cách khác, tính hữu ích của thông tin tài chính bị giảm sút néu chi phí vượt quá lợi ích mang lại từ việc cung cấp sử dụng thông tin. Điều này gây ra áp lực rất lớn đến việc cung cấp thông tin tài chính hữu ích nếu yêu cầu quá cao về lợi ích mang lại của thông tin từ phía nhà nước, người sử dụng so với khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Trong những tình huống không chắc chắn, đòi hỏi phải có sự xét đoán của người làm kế toán hoặc những người liên quan trực tiếp khác như các kiểm toán viên, nhà phân tích về những sự kiện quan trọng có thể ảnh hưởng lớn đến việc ra quyết định của người sử dụng thông tin. Sự xét đoán về mức độ ảnh hưởng gắn liền với tính chất trọng yếu của sự kiện, trên phương diện tổng thể hoặc cục bộ, đặc biệt là ở khía cạnh định lượng. Do vậy, việc đưa ra các hướng dẫn hay tiêu chuẩn để giúp xác định các mức trọng yếu theo từng ngành, lĩnh vực hoạt động là điều cần thiết để các bên liên quan có được sự đảm bảo hợp lý khi đưa ra các xét đoán là không bị lệ thuộc nhiều vào các ngưỡng nhận thứ cá biệt nào, chẳng hạn như Bảng hướng dẫn các ví dụ về định lượng mức trọng yếu được FASB đưa ra trong CON2 trên cơ sở tham chiếu các hướng dẫn của SEC, APB. Điều này chắc chắn sẽ giúp tăng cường tính hữu ích của thông tin tài chính được cung cấp. Trong hệ thống các tính chất kế toán thì sự phù hợp và đáng tin cậy là những khái niệm trung tâm của kế toán. Để phù hợp (relevant), thông tin kế toán phải có năng lực tạo ra sự khác biệt trong một quyết định qua việc giúp cho người sử dụng thông tin thực hiện thiết lập các dự báo về kết quả của các sự kiện trong qúa khứ, hiện tại, hay tương lai, xác nhận hoặc hiệu chỉnh các kỳ vọng (CON2, đoạn 47). Một mặt, tính phù hợp của thông tin tài chính bao gồm hai thành tố là giá trị dự báo (predictive value) và giá trị phản hồi (feedback value), bởi vì không nhận thức được quá khứ thì không đủ cơ sở để dự báo, không có lợi ích trong tương lai thì nhận thức về quá khứ cũng vô dụng (CON2, đoạn 51), điều này thể hiện rất rõ trong các báo cáo giữa niên độ để thể hiện thành quả quá khứ lẫn dự báo thu thập thường niên trước khi kết thúc niên độ; mặt khác, tính kịp thời cũng được xem một khía cạnh lệ thuộc của tính phù hợp bởi nếu thông tin không sẵn có khi cần hoặc chỉ có sau khi các sự kiện đã được báo cáo rất lâu thì thông tin sẽ thiếu tính phù hợp và ít được sử dụng. Tính tin cậy (reliability) cũng như tính phù hợp rất quan trọng để làm sáng tỏ thực chất của các yêu cầu để có được số liệu kế toán được mô tả một cách xác thực (CON2, đoạn 58). Thông tin kế toán đáng tin cậy khi người sử dụng thông tin có thể đặt niềm tin vào đó để ra quyết định, dựa trên hai đặc trưng quan trọng là trình bày trung thực (representational faithfulness) và có thể kiểm tra (verifiability), ngoài ra tính trung thực (neutrality) của thông tin cũng có quan hệ tương tác với hai đặc trưng trên để tác động lên tính hữu ích của thông tin (CON2, đoạn 62). Thông tin tài chính của doanh nghiệp sẽ mang lại sự hữu ích to lớn nếu được so sánh với những thông tin tương tự về các doanh nghiệp khác hoặc so sánh với các thông tin qua các thời kì, thời điểm tại cùng một doanh nghiệp. Điều này càng được thể hiện rõ trong các quyết định cho vay, đầu tư bởi chúng được dựa trên sự ước lượng các cơ hội thay thế. Tuy nhiên, việc so sánh gặp nhiều khó khăn bởi có nhiều phương pháp kế toán khác nhau được chấp thuận trong nhiều năm, đây là nguyên nhân mang tính nguyên tắc để phát triển các chuẩn mực kế toán (CON2, đoạn 112) Quan điểm của Hội đồng Chuẩn mực kế toán tài chính Quốc tế (IASB) Khuôn mẫu lý thuyết (framework) (được IASC phê chuẩn năm 1989 và tiếp tục được IASB kế thừa từ năm 2001), tại đoạn 24 đã xác định 4 đặc tính chủ yếu làm cho thông tin trên BCTC trở nên hữu ích đối với nhà đầu tư, cho vay và các đối tượng khác gồm: tính có thể hiểu, tính phù hợp, tính đáng tin cậy và tính có thể so sánh. Chúng được đặt trong ngữ cảnh ba cấp độ khuôn mẫu về khái niệm cho việc soạn thảo. Nhìn chung, các tính chất của thông tin tài chính theo Framework cũng khá tương đồng với quan điểm của FASB, chẳng hạn diễn giải về tính có thể hiểu nêu trong Framework tại đoạn 25: thông tin phải được trình bày theo cách thức sao cho những người có trình độ nhận thức tương đối về kinh doanh, hoạt động kinh tế, kế toán và những người để tâm nghiên cứu thông tin có thể dễ dàng hiểu được, nội dung này không khác gì so với đoạn 34 của CON1. Và những nội dung liên quan đến các tính chất khác cũng được Framework đề cập một cách tương tự với FASB CON1 và CON2. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một số điểm khác biệt giữa IASB và FASB liên quan đến các tính chất làm cho thông tin kế toán trở nên hữu ích, qua 3 quan điểm mấu chốt sau: - Thứ nhất, mặc dù cả hai đều đề cập đến các đặc tính có thể hiểu, phù hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh, nhưng Framework xem đó đều là những tính chất sơ cấp trong khi CON2 đưa ra một thứ bậc rõ ràng với mức độ sơ cấp dành cho tính đáng tin cậy và phù hợp, thứ cấp dành cho tính có thể so sánh, còn tính dễ hiểu đứng tách biệt với các tính chất khác và gắn với đặc thù của người sử dụng thông tin. - Thứ hai, tính đáng tin cậy của thông tin trong Framework được dựa trên việc đảm bảo các yêu cầu về trình bày trung thực, nội dung hơn hình thức, khách quan, thận trọng và đầy đủ (các đoạn từ 33 đến 38), trong khi theo CON2 thì tính đáng tin cậy bao gồm ba thành phần là trình bày trung thực, có thể kiểm tra và trung lập. - Thứ ba, tính phù hợp của thông tin trình bày trong Framework chủ yếu liên quan đến tính trọng yếu và kịp thời, chịu ảnh hưởng bởi bản chất và tính trọng yếu (đoạn 29), và sự chậm trễ trong báo cáo thông tin có thể làm mất đi tính phù hợp của thông tin (đoạn 43); trong khi đó CON2 cho rằng ngoài tính kịp thời, tính phù hợp còn bao gồm hai thành phần khác là giá trị dự báo và giá trị phản hồi. Cho đến nay, IASB và FASB đã có nhiều nỗ lực trong việc tìm kiếm sự hoà hợp trong quan điểm về các khái niệm, lý thuyết và thực hành kế toán, trong lúc đó, cả hai hiện vẫn đang là nguồn cung cấp tài liệu quan tham khảo, đối chiếu quan trọng nhất trong lĩnh vực kế toán trên thế giới. Một số luận điểm khác liên quan đến tính hữu ích của thông tin. Nhóm tác giả Collins, Maydaw và Weiss (1997) trên cơ sở đánh giá hồi quy trong giai đoạn từ 1953 đén 1993 nhận thấy: sự kết hợp giữa giá trị phù hợp của lợi nhuận và giá trị ghi sổ của TS không bị suy giảm trong 40 năm qua, thậm chí còn tăng lên một ít, hơn nữa các tác giả Fransis và Schipper (1996), Eley và Waymire (1996) nói chung đều đồng tình rằng mối liên hệ giữa các biến số của thông tin vốn và các dữ liệu tài chính cũng nhận được sự quan tâm đáng kể. Nhóm tác giả Baruch Lev và Paul Zarowin (1998) của Đại học Newyork thì có quan
Luận văn liên quan