Tiểu luận Thực thi quyền con người của Liên Hiệp Quốc

Quyền con người là những quyền cơ bản, cần thiết nhất, đảm bảo cho con người được tồn tại và phát triển bình thường như quyền sống, quyền đi lại, quyền được đối xử bình đẳng không phân biệt nam nữ, chủng tộc, chính kiến Giai đoạn trước năm 1945, các vấn đềvềquyền con người thuộc quyền tài phán riêng biệt của mỗi quốc gia. Các quốc gia ban hành các văn bản pháp luật quy đ ịnh quyền của các cá nhân thuộc quyền tài phán của mình đồng thời xây dựng các cơ quan đảm bảo thực thi. Chiến tranh thếgiớilần thứhai, đỉnh điểm của sựxâm phạm quyền con người, đ ã đem đến những bước phát triển vượt bậc cho Luật Quốc tế vềquyền con người. Hàng loạt các văn kiện pháp lý quốc tếmang tính toàn cầu cũng như khu vực vềquyền con người được ra đời. Các văn kiện này, bên cạnh các điều khoản quy định nghĩa vụcủa các quốc gia phải tôn trọng các quyền con người, còn có những điều khoản quy định vềviệc thiết lập các cơ quan và cách thức đảm bảo thực thi các quyền con người. Hệthống các văn kiện pháp lý quốc tế, cáccơ quan và cách thức đảm bảo thực thi là những yếu tốcấu thành cơ bản của một cơ chếbảo vệquyền con người. Các cơ chế này đư ợc cấu thành bởi hệ th ống các văn kiện pháp lý quốc tếvềquyền con người, hệthống các cơ quan và cách thức đảm bảo thực thi. Ởcấp độtoàn cầu, cho đến nay LHQ đã ban hành một khối lượng đồ sộcác văn kiện pháp lý quốc tếvềquyền con người, trong đó có 25 công ước và nghịđịnh thư. Ởcấp độkhu vực, Châu Âu, Châu Mỹvà Châu Phi đã xây dựng thành công các văn kiện pháp lý vềquyền con người như: công ước nhân quyền Châu Âu (1950), công ước nhân quyền Châu Mỹ (1969) và Hiến chương Châu Phi vềquyền con người và quyền dân tộc (1981).

pdf22 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3000 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực thi quyền con người của Liên Hiệp Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận Thực thi quyền con người của Liên Hiệp Quốc 2 LỜI MỞ ĐẦU Quyền con người là những quyền cơ bản, cần thiết nhất, đảm bảo cho con người được tồn tại và phát triển bình thường như quyền sống, quyền đi lại, quyền được đối xử bình đẳng không phân biệt nam nữ, chủng tộc, chính kiến… Giai đoạn trước năm 1945, các vấn đề về quyền con người thuộc quyền tài phán riêng biệt của mỗi quốc gia. Các quốc gia ban hành các văn bản pháp luật quy định quyền của các cá nhân thuộc quyền tài phán của mình đồng thời xây dựng các cơ quan đảm bảo thực thi. Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đỉnh điểm của sự xâm phạm quyền con người, đã đem đến những bước phát triển vượt bậc cho Luật Quốc tế về quyền con người. Hàng loạt các văn kiện pháp lý quốc tế mang tính toàn cầu cũng như khu vực về quyền con người được ra đời. Các văn kiện này, bên cạnh các điều khoản quy định nghĩa vụ của các quốc gia phải tôn trọng các quyền con người, còn có những điều khoản quy định về việc thiết lập các cơ quan và cách thức đảm bảo thực thi các quyền con người. Hệ thống các văn kiện pháp lý quốc tế, các cơ quan và cách thức đảm bảo thực thi là những yếu tố cấu thành cơ bản của một cơ chế bảo vệ quyền con người. Các cơ chế này được cấu thành bởi hệ thống các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, hệ thống các cơ quan và cách thức đảm bảo thực thi. Ở cấp độ toàn cầu, cho đến nay LHQ đã ban hành một khối lượng đồ sộ các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, trong đó có 25 công ước và nghị định thư. Ở cấp độ khu vực, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Phi đã xây dựng thành công các văn kiện pháp lý về quyền con người như: công ước nhân quyền Châu Âu (1950), công ước nhân quyền Châu Mỹ (1969) và Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền dân tộc (1981). Bên cạnh việc xây dựng và ban hành các công ước quốc tế về quyền con người, LHQ, Hội đồng Châu Âu, Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ và Tổ chức thống nhất Châu Phi còn thiết lập các cơ quan đảm bảo thực thi các quyền được quy định trong các công ước. Như vậy, quyền con người được đảm bảo thực thi không những bằng hệ thống pháp luật, chính sách của quốc gia mà còn thông qua các thỏa thuận pháp lý quốc tế. 3 Các cách thức bảo đảm thực thi cơ chế nhân quyền làm cho quyền con người được bảo vệ một cách hiệu quả nhất, nó có vai trò mang tính bổ trợ cho cơ chế bảo vệ nhân quyền của quốc gia, loại bỏ sự bất chấp và coi thường nhân quyền dễ dẫn đến những hậu quả là hành vi tàn ác làm tổn thương lương tâm của nhân loại. Bên cạnh đó các cách thức này thúc đẩy việc tăng cường và tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ tôn giáo. Chương I. Cách thức đảm bảo thực thi của Liên hợp quốc I. Hệ thống các cơ quan Cơ chế quốc tế về quyền con người là hệ thống các cơ quan có nhiệm vụ giám sát và hỗ trợ việc thực hiện quyền con người trên phạm vi thế giới. Ở cấp độ quốc tế, đó là cơ chế của tổ chức Liên hợp quốc. Ở cấp độ hẹp hơn, có cơ chế của các tổ chức khu vực, cụ thể là cơ chế giám sát thực hiện quyền con người khu vực châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. Cơ chế giám sát thực hiện quyền con người của Liên hợp quốc nhìn chung được chia làm hai hệ thống chính: Thứ nhất, là hệ thống các cơ quan hình thành theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc bao gồm Hội đồng bảo an, Đại hội đồng, Tòa án tư pháp quốc tế, Hội đồng kinh tế xã hội, Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc, Tiểu ban bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc. Thứ hai, hệ thống các cơ quan giám sát thực hiện các điều ước quốc tế bao gồm 7 ủy ban sau đây: 1. Ủy ban loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc (CERD), 1969. 2. Ủy ban quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR), 1987. 3. Ủy ban nhân quyền (HRC), 1976. 4. Ủy ban loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), 1982. 5. Ủy ban chống tra tấn (CAT), 1987. 6. Ủy ban quyền trẻ em (CRC),1990. 7. Ủy ban bảo vệ quyền của người lao động di cư và các thành viên trong gia đình của họ (CMW), 2004. a) Hệ thống được thành lập theo Hiến chương gồm có các cơ quan chính là Đại hội đồng , ECOSOC và các cơ quan trực thuộc, Ban thư ký, như sau: Hội đồng bảo an Chức năng của HĐBA được quy định tại Điều 24 của Hiến chương LHQ. Và với chức năng và quyền hạn được trao, nhận thấy vấn đề quyền con người không thuộc trách nhiệm và quyền hạn của HĐBA. Thực tế, 4 “nó không có thẩm quyền rõ ràng đối với việc bảo vệ quyền con người”. Tuy nhiên, mối quan hệ của HĐBA với vấn đề quyền con người có thể được xác định tại điều 34 của Hiến chương… Theo điều 34, trong các tình thế có thể gây ra sự bất hoà quốc tế hoặc gây tranh chấp đe doạ đến hoà bình an ninh thế giới thì Hội đồng có thể viện dẫn các quy định tại Hiến chương liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng để giải quyết các vấn đề đó. Trong trường hợp có sự vi phạm quyền con người một cách rõ rang và ở mức độ cao, Hội đồng hoàn toàn có khả năng xác định trường hợp đó sẽ tạo nên nguy cơ đe doạ hoà bình và an ninh thế giới theo quy định tại điều 39(a) của Hiến chương. Hội đồng có đủ thẩm quyền thay mặt LHQ để thông qua và áp dụng các biện pháp cưỡng chế nếu sự việc không được giải quyết thoả đáng ở mức độ thấp hơn. Điều đặc biệt trong các hoạt động của HĐBA là “trong nhiều năm qua, vấn đề đảm bảo an ninh, hoà bình và bảo vệ quyền con người đã và đang được nhập vào nhau và ngày nay, những phạm vi rộng lớn và có hệ thống về quyền con ngươi được xem như là mối đe doạ đến hoà bình theo quy định tại điều 39”. Thông qua việc sử dụng thẩm quyền được Hiến chương giao cho, HĐBA là cơ quan quyết định cuối cùng về những vấn đề liên quan, bao gồm cả vấn đề quyền con người. Đại Hội đồng LHQ  Uỷ ban III Đại hội đồng LHQ chuyên trách về các vấn đề nhân quyền, nhân đạo, xã hội.  Các cơ quan khác trực thuộc : Uỷ ban đặc biệt về phi thực dân hoá; Uỷ ban đặc biệt chống Apartheid; Uỷ ban đặc biệt điều tra vi phạm nhân quyền của Israel tại các vùng chiếm đóng; Uỷ ban về thực hiện quyền của nhân dân Palestin; Cao uỷ LHQ về nhân quyền; Cao uỷ LHQ về người tị nạn. Quy định tại điều 13(1,b) của Hiến chương giao cho ĐHĐ “đề xướng những nghiên cứu và thông qua những khuyến nghị” với mục đích “thực hiện các quyền con người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”. ĐHĐ thông qua những khuyến nghị, nghị quyết kể cả các nghị quyết thông qua các điều ước quốc tế. Những khuyến nghị này không có giá ràng buộc, mệnh lệnh về mặt pháp lý. Điều 55 và 56 có quy định mức độ các khuyến nghị và thẩm quyền của ĐHĐ, theo đó các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải hợp tác với LHQ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền con người. Vì vậy, trong thực tế, mức độ ảnh hưởng của các khuyến nghị của ĐHĐ đối với các vấn đề quyền con người có một hiệu lực nhất định, nhất là các văn bản được thông qua bằng sự thống nhất biểu quyết của các thành viên. Những đóng góp của ĐHĐ trên lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người có vị trí lớn lao, thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn thể các dân tộc về một thế giới mà ở đó quyền con người được tôn trọng. Tuy 5 nhiên, ĐHĐ vẫn còn có những hạn chế cơ bản trong việc thực hiện các tiêu chuẩn và quy định về quyền con người đã được nó xây dựng nên. Thực tế, các văn kiện về quyền con người đã đạt đến độ tương đối hoàn chỉnh về số lượng và chất lượng, nhưng việc biến chúng thành thực tiễn ở các nước trên thế giới đang còn là vấn đề nan giải. Lý do chính là bởi những sự khác biệt giữa các quốc gia về các điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị, lịch sử khi thực thi Luật quốc tế về nhân quyền quốc tế, trong khi đó các quy định của các văn kiện này còn mang tính chung chung, khái quát. Ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định của các văn kiện trên vẫn thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, ĐHĐ và các cơ quan liên quan vẫn chưa thể có các biện pháp để đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện triệt để quyền con người như đã được ghi rõ trong hệ thống các văn kiện được ĐHĐ thông qua. Hội đồng kinh tế và xã hội (ECOSOC) - ECOSOC đã lập Uỷ ban nhân quyền ; Tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền (gọi tắt là Tiểu ban nhân quyền); Uỷ ban tình trạng phụ nữ (CSW)... - Uỷ ban Nhân quyền chịu trách nhiệm đưa ra các khuyến nghị và báo cáo về các vấn đề nhân quyền thông qua ECOSOC trình lên Đại hội đồng LHQ, Uỷ ban Nhân quyền gồm 53 nước thành viên, nhiệm kỳ 3 năm. Hàng năm Uỷ ban họp một lần kéo dài 6 tuần (thường vào cuối tháng 3, đầu tháng 4) tại Giơnevơ. Năm 2005, tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền đã được thành lập để thay thế UBNQ. - Tiểu ban nhân quyền (gồm 26 chuyên gia) có chức năng giúp việc cho Uỷ ban nhân quyền, tư vấn khuyến nghị về các vấn đề chuyên môn, dự thảo các văn bản pháp lý trong lĩnh vực liên quan. Ngoài ra để giúp việc cho mình Uỷ ban Nhân quyền còn lập ra các nhóm làm việc, và báo cáo viên đặc biệt về các vấn đề và các nước cụ thể. Hội đồng kinh tế xã hội là một cơ quan của LHQ trực tiếp đảm trách các công việc về quyền con người. Hoạt động của Hội đồng bao gồm thực hiện các nghiên cứu và xây dựng những khuyến nghị trên phạm vi rộng lớn các vấn đề, bao gồm không chỉ việc “tôn trọng, tuân thủ quyền con người…cho tất cả” mà còn cả những vấn đề quyền con người cụ thể trên các lĩnh vực “kinh tế, văn hoá, giáo dục, sức khỏe và các vấn đề có liên quan”. Từ bình diện quyền con người, Hội đồng kinh tế, xã hội có thể được xem là cơ quan có chức năng và thẩm quyền trực tiếp đối với vấn đề thúc đẩy sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Từ năm 1946, Hội đồng kinh tế, xã hội đã giải quyết hang loạt các vấn đề liên quan đến quyền con người như: diệt chủng, ngăn chặn tình trạng người bị mất quốc tịch, ngăn chặn phân biệt đối xử, bảo vệ người thiểu số. 6 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc Năm 2005, Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc (LHQ) quyết định thay thể Uỷ ban Nhân quyền (thành lập năm 1946) (UBNQ) bằng Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) mới trong nỗ lực để đưa vấn đề nhân quyền trở thành một trong ba trụ cột chính của LHQ cùng với hoà bình an ninh và phát triển. Theo nghị quyết A/60/251 được ĐHĐ thông qua ngày 16/3/2006, HĐNQ bao gồm 47 thành viên (Châu Á: 13 ghế, Châu phi 13, Đông Âu 6, Mỹ Latinh và Ca-ri-bê 8, phương Tây 7) so với 53 của UBNQ trước đây và trở thành một cơ quan trực thuộc và báo cáo trực tiếp lên ĐHĐ. Để được bầu làm thành viên HĐNQ, phải được sự chấp thuận thông qua bỏ phiếu kín của đa số thành viên (trên 96 phiếu thuận ). Khác với UBNQ trước đây thành viên HĐNQ được giới hạn 2 nhiệm kỳ liên tiếp và có thể bị đình chỉ nếu 2/3 ĐHĐ LHQ tán thành. HĐNQ họp ít nhất là 4 phiên và không dưới 10 tuần. HĐNQ có thể triệu tập phiên họp đặc biệt nhằm đối phó với tình hình khẩn cấp khi có được sự chấp thuận ít nhât 1/3 thành viên. Về chức năng, cơ bản HĐNQ kế thừa các chức năng của UBNQ trước đây. Thứ nhất, UB chịu trách nhiệm trong việc chuẩn bị và đưa ra những hướng dẫn chính sách về nhân quyền, đồng thời tiến hành nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến quyền con người. Thứ hai, UB có nhiệm vụ quan trọng trong việc hình thành và pháp điển hoá các quy phạm pháp luật quốc tế về quyền con người. Thứ ba, UB có nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc thực hiện các văn kiện về quyền con người. Thứ tư, UB có quyền thảo luận các vấn đề về tình hình nhân quyền ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. UB còn được uỷ quyền trong việc tiếp nhận và xem xét các nguồn thông tin trình lên UB từ các quốc gia thành viên, các tổ chức phi chính phủ và từ các nguộn khác. Thứ năm, UB có vai trò là diễn đàn cho tất cả đối tượng có liên quan từ các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức liên chính phủ tham gia thảo luận, trình bày các vấn đề cũng như sự quan tâm của mình về vấn đề quyền con người. Ngoài ra theo nghị quyết A/60/251, trong năm đầu tiên, HĐNQ có nhiệm vụ phải ra soát, cải tiến và hợp lý hoá các cơ chế, nhiệm vụ và chức năng của UBNQ, đồng thời xây dựng một cơ chế mới là Kiểm điểm định kỳ tình hình thực hiện nhân quyền của các nước trên thế giới (UPR). Văn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc về nhân quyền (trước đây là Trung tâm Nhân quyền Liên hợp quốc), đóng tại Giơnevơ, là Cơ quan trực thuộc Ban Thư ký Liên hợp quốc có trách nhiệm giúp đỡ bộ máy 7 LHQ thúc đẩy vấn đề nhân quyền, dưới sự điều hành của Cao uỷ Nhân quyền, tương đương với chức vụ Phó Tổng thư ký LHQ (vị trí này được thành lập từ năm 1993). Cao uỷ nhân quyền LHQ chịu trách nhiệm các vấn đề sau:  Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội và quyền phát triển.  Cung cấp các dịch vụ tư vấn, kỹ thuật và tài chính trên lĩnh vực quyền con người cho các quốc gia khi được yêu cầu.  Điều phối các chương trình giáo dục và thông tin về con người.  Đóng vai trò tích cực trong việc loại bỏ những trở ngại đối với vấn đề thực hiện quyền con người.  Nâng cao hợp tác quốc tế nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.  Ngoài ra, trong trường hợp được Tổng thư ký uỷ quyền, Cao uỷ Nhân quyền LQ còn có thẩm quyền bổ nhiệm những tổ công tác và báo cáo viên đặc biệt để tiến hành các hoạt động tương tự. b) Hệ thống các cơ quan quy định theo Công ước là các cơ quan được thành lập theo các điều khoản của các công ước quốc tế về nhân quyền nhằm giúp theo dõi việc thực hiện các công ước này và thường được gọi là các uỷ ban công ước như uỷ ban Công ước về các quyền Dân sự, Chính trị, Công ước về các quyền Kinh tế, Văn hoá và Xã hội, Công ước chống Phân biệt Chủng tộc, Công ước Chống Phân biệt đối xử với Phụ nữ, Công ước quyền Trẻ em, Công ước Chống Tra tấn... Thành viên của các cơ quan công ước là các chuyên gia độc lập do các nước thành viên công ước bầu ra, trên cơ sở các nước đề cử. Chức năng của UB: nhận và xem xét các báo cáo quốc gia theo đúng trình tự quy định, phân tích các báo cáo quốc gia thông qua việc nghiên cứu và đối thoại với các đại diện của các quốc gia thành viên, đưa các kết luận và khuyến nghị về việc thực hiện công ước đối với các quốc gia thành viên trong đó chỉ rõ các khía cạnh tích cực các trở ngại và khó khăn trong việc thực hiện công ước các vấn đề cần quan tâm các đề xuất xử lý và kiến nghị, hướng dẫn các quốc gia thành viên bằng nhiều biện pháp đặc biệt là thông qua việc xây dựng các khuyến nghị chung. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) Uỷ ban Nhân quyền được thành lập với các chức năng, nhiệm vụ và hoạt động theo quy định tại các điều 28 đến 45 của công ước này. Uỷ ban có 4 chức năng:  Thẩm định báo cáo quốc gia và đưa ra các khuyến nghị  Làm trung gian hoà giải, khiếu kiện giữa các quốc gia  Bình luận giải thích công ước 8  Xem xét các khiếu kiện cá nhân theo Nghị định thư thứ nhất của Công ước Công ước quốc tế vế các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hó được thành lập bởi Hội đồng kinh tế và xã hội.UB có 18 thành viên. Các thành viên của UB làm việc với tư cách cá nhân. UB có các chức năng:  Nhận và xem xét các báo cáo quốc gia theo đúng trình tự quy định  Phân tích các báo cáo quốc gia thông qua việc nghiên cứu và đối thoại với đại diện của các quốc gia thành viên  Đưa ra các kết luận và khuyến nghị về việc thực hiện công ước đối với các quốc gia thành viên, trong đó chỉ rõ các khía cạnh tích cực, các trở ngại, khó khăn trong việc thực hiện công ước, các vấn đề quan tâm, các đề xuất xử lý và kiến nghị  Hướng dẫn các quốc gia thành viên bằng nhiều biện pháp, đặc biệt là thông qua việc xây dựng các khuyến nghị chung Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc Theo điều 8, Uỷ ban xoá bỏ phân biệt đối xử về chủng tộc với 18 chuyên gia được thành lập để thực hiện chức năng giám sát Công ước này. Uỷ ban thực hiện chức năng giám sát của mình thông qua ba thủ tục chính là báo cáo định kỳ (điều 9), khiếu kiện giữa các quốc gia (điều 11,12,13), khiếu kiện cá nhân hoặc nhóm (điều 14), trong đó báo cáo định kỳ là thủ tục cơ bản và quan trọng nhất. Cơ chế khiếu kiện giữa các quốc gia mặc dù là mang tính bắt buộc nhưng đến nay UB vẫn chưa nhận được bất kỳ khiếu kiện nào. Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ Uỷ ban về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ chịu trách nhiệm xem xét báo cáo định kỳ hoặc báo cáo ngoại lệ và đưa ra các kết luận và đánh giá. UB được phép tiếp nhận thông tin, báo cáo từ các cơ quan chuyên môn khác của LHQ và từ Báo cáo viên đặc biệt. Điều 21 của Công ước cho phép UB đưa ra các khuyến nghị chung để giải thích, làm rõ các điều khoản của công ước. Nghị định thư bổ sung của Công ước này đưa ra quy định về thẩm quyền của UB trong việc tiếp nhận và xem xét các khiếu nại của cá nhân, các nhóm và tiến hành thủ tục điều tra khi nhận thấy “có những vi phạm hệ thống và nghiêm trọng tới các quyền được ghi nhận trong công ước”. Công ước về quyền trẻ em 9 Điều 43 của Công ước cho phép thành lập Uỷ ban quyền trẻ em để giám sát việc thực hiện công ước. Công ước về quyền trẻ em không đưa ra quy định vể cơ chế khiếu kiện quốc gia mà chủ yếu thực hiện chức năng xem xét báo cáo và tổ chức Ngày thảo luận chung theo từng chủ để cụ thể. Điểm đặc biệt trong cơ chế giám sát và thực hiện quyền trẻ em là công ước cho phép sự tham gia tích cực của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là của UNICEF trong giám sát tiến trình thực thi công ước của các quốc gia. Công ước về bảo vệ quyền của người lao động di cư và thành viên gia định họ Uỷ ban bảo vệ quyền của người lao động di cư và thành viên gia đình họ là cơ quan giám sát việc thực hiện Công ước. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đệ trình báo cáo về tình hình thực hiện công ước lên Uỷ ban. Điều 76 và 77 cho phép Uỷ ban nhận và xem xét khiếu kiện giữa các quốc gia và các cá nhân khi quốc gia đó tuyên bố công nhận thẩm quyền này của Ủy ban. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có quốc gia thành viên nào tuyên bố thừa nhận thủ tục này. Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng Công ước này không có Uỷ ban các chuyên gia hay cơ quan giám sát. Đây là một trở ngại lớn trong việc thực hiện Công ước này. Tuy nhiên Công ước này cho phép các quốc gia thành viên có quyền được yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của LHQ giúp đỡ để có hành động can thiệp dựa trên các quy định của Hiến chương để ngăn chặn và loại bỏ hành vi diệt chủng và đưa những tranh chấp có liên quan tới trách nhiệm quốc gia về tội diệt chủng ra toà án tư pháp như quy định tại điều 9. Công ước về địa vị của người tị nạn 1951 Cao ủy LHQ về người tị nạn là cơ quan chức năng có nhiệm vụ chính là cung cấp sự bảo vệ quốc tế cho người tị nạn và tìm kiếm giải pháp hữu hiệu để giúp người tị nạn hòa nhập cuộc sống ở quốc gia mới hoặc hồi hương về quốc gia của mình. Phạm vi quyền hạn của Cao ủy LHQ về người tị nạn không chỉ giới hạn ở quốc gia tham gia công ước về địa vị của người tị nạn và nghị định thư 19676, mà theo quy chế thành lập thì cơ quan này còn có nhiệm vụ bảo vệ người tị nạn ở bất kỳ quốc gia nào. Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục Ủy ban chống tra tấn có thẩm quyền giám sát việc thực hiện Công ước thông qua bốn thủ tục: xem xét báo cáo, thực hiện thủ tục điều tra, , xem xét khiếu kiện cá nhân và khiếu kiện quốc gia, trong đó chỉ có trách 10 nhiệm xem xét báo cáo và điều tra là mang tính bắt buộc. Các thủ tục còn lại chỉ được thực hiện khi quốc gia thành viên tuyên bố thừa nhận thẩm quyền của Ủy ban. Như vậy có thể so thấy rằng, nếu cơ chế quyền con người dựa trên các công ước là cơ chế của các cơ quan mang tính chuyên môn tương đối độc lập thì cơ chế quyền con người d