1. Sự cần thiết của đề tài
Thuế là công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng của nhà nước. Các lý thuyết kinh tế và thực tiễn quản lý đã khẳng định rằng, nếu chính sách thuế không phù hợp sẽ có tác động ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế cũng như thu ngân sách nhà nước. Trường hợp, thuế thu cao - số thu ngân sách nhà nước trong ngắn hạn sẽ tăng nhanh, song cũng sẽ hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng, tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong dài hạn sẽ có xu huớng giảm sút, từ đó tác động ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác như giảm đầu tư, tăng thất nghiệp, mất cân đối cung cầu hàng hoá trong xã hội, tăng lạm phát. Do vậy, hệ thống chính sách thuế được ban hành trong các giai đoạn lịch sử khác nhau luôn đòi hỏi phải phù hợp và hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện các cân đối kinh tế vĩ mô, các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Nói cách khác, với mỗi sự biến động, sự thay đổi về kinh tế, về môi trường hay điều kiện phát triển kinh tế thì nhất thiết hệ thống chính sách thuế cũng phải được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.
2. Mục đích của tiểu luận
Trên sơ sở thu thập, xử lý số liệu về thu NSNN; tổng hợp, phân tích thực tiễn cải cách chính sách thuế ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1990 đến 2010; so sánh, đánh giá kết quả của việc thực hiện cải cách chính sách thuế; từ đó nhận định xu hướng và đề xuất các vấn đề cần phải tiếp tục cải cách chính sách thuế ở Việt Nam với mục đích là nhằm tạo ra một hệ thống thuế thống nhất, các sắc thuế hỗ trợ cho nhau trong quá trình thực hiện, hạn chế trùng lặp, tạo lập sự bình đẳng, không phân biệt đối xử về thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế với nhau, nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của người nộp thuế, góp phần tích cực vào cải cách công tác quản lý của nhà nước, thức đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu tiểu luận
Với thời gian và sự hiểu biết có hạn, chúng tôi giới hạn tập trung nghiên cứu thực tiễn và xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010 trên cơ sở số liệu, thông tin thu thập được qua các tài liệu công bố công khai của Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê và dữ liệu online của IMF, OCED, Worldbank.
4. Nội dung tiểu luận
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, chúng tôi bố cục nội dung tiểu luận gồm bốn phần với các nội dung sau:
Phần mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
Phần nội dung
1. Tổng quan về thuế và cải cách thuế
1.1 Thuế và cơ cấu hệ thống thuế
1.2 Xu hướng cải cách thuế
1.3 Sự cần thiết cải cách thuế
1.4 Khó khăn, thử thách trong cải cách thuế
1.5 Yêu cầu cải cách thuế
1.6 Mục tiêu cải cách thuế
1.7 Nội dung cải cách thuế
2. Thực tiễn cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010
2.1 Cải cách thuế bước 1, giai đoạn 1990-1995
2.2 Cải cách thuế bước 2, giai đoạn 1996-2001
2.3 Cải cách thuế bước 3, giai đoạn 2002-2010
2.3.1 Đối với thuế thu nhập
2.3.2 Đối với thuế tiêu dùng
2.3.3 Đối với thủ tục hành chính thuế
3. Kết quả cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010
3.1 Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu động viên NSNN
3.2 Nhận xét và đánh giá
4. Xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam trong thời gian tới
5. Một số đề xuất cải cách thuế ở Việt Nam trong thời gian tới
5.1 Vấn đề cần xem xét sửa đổi
5.2 Định hướng chung đề xuất
Phần kết luận
Phần tài liệu tham khảo
38 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5141 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực tiễn và xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam trong 20 năm qua đã có nhiều bước cải cách quan trọng. Đến nay Việt Nam đã hình thành được một hệ thống chính sách thu ngân sách khá toàn diện, cơ bản phù hợp với cấu trúc hệ thống động viên ngân sách của một quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, diễn biến kinh tế- xã hội giai đoạn tới dự báo sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi, theo đó hệ thống chính sách thuế cũng cần có những điều chỉnh cho phù hợp.
Sự cần thiết của đề tài
Thuế là công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng của nhà nước. Các lý thuyết kinh tế và thực tiễn quản lý đã khẳng định rằng, nếu chính sách thuế không phù hợp sẽ có tác động ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế cũng như thu ngân sách nhà nước. Trường hợp, thuế thu cao - số thu ngân sách nhà nước trong ngắn hạn sẽ tăng nhanh, song cũng sẽ hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng, tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong dài hạn sẽ có xu huớng giảm sút, từ đó tác động ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác như giảm đầu tư, tăng thất nghiệp, mất cân đối cung cầu hàng hoá trong xã hội, tăng lạm phát... Do vậy, hệ thống chính sách thuế được ban hành trong các giai đoạn lịch sử khác nhau luôn đòi hỏi phải phù hợp và hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện các cân đối kinh tế vĩ mô, các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Nói cách khác, với mỗi sự biến động, sự thay đổi về kinh tế, về môi trường hay điều kiện phát triển kinh tế thì nhất thiết hệ thống chính sách thuế cũng phải được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.
Mục đích của tiểu luận
Trên sơ sở thu thập, xử lý số liệu về thu NSNN; tổng hợp, phân tích thực tiễn cải cách chính sách thuế ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1990 đến 2010; so sánh, đánh giá kết quả của việc thực hiện cải cách chính sách thuế; từ đó nhận định xu hướng và đề xuất các vấn đề cần phải tiếp tục cải cách chính sách thuế ở Việt Nam với mục đích là nhằm tạo ra một hệ thống thuế thống nhất, các sắc thuế hỗ trợ cho nhau trong quá trình thực hiện, hạn chế trùng lặp, tạo lập sự bình đẳng, không phân biệt đối xử về thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế với nhau, nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của người nộp thuế, góp phần tích cực vào cải cách công tác quản lý của nhà nước, thức đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu tiểu luận
Với thời gian và sự hiểu biết có hạn, chúng tôi giới hạn tập trung nghiên cứu thực tiễn và xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010 trên cơ sở số liệu, thông tin thu thập được qua các tài liệu công bố công khai của Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê và dữ liệu online của IMF, OCED, Worldbank.
Nội dung tiểu luận
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, chúng tôi bố cục nội dung tiểu luận gồm bốn phần với các nội dung sau:
Phần mở đầu
Sự cần thiết của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Phần nội dung
Tổng quan về thuế và cải cách thuế
1.1 Thuế và cơ cấu hệ thống thuế
1.2 Xu hướng cải cách thuế
1.3 Sự cần thiết cải cách thuế
1.4 Khó khăn, thử thách trong cải cách thuế
1.5 Yêu cầu cải cách thuế
1.6 Mục tiêu cải cách thuế
1.7 Nội dung cải cách thuế
Thực tiễn cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010
Cải cách thuế bước 1, giai đoạn 1990-1995
Cải cách thuế bước 2, giai đoạn 1996-2001
Cải cách thuế bước 3, giai đoạn 2002-2010
Đối với thuế thu nhập
Đối với thuế tiêu dùng
Đối với thủ tục hành chính thuế
Kết quả cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010
Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu động viên NSNN
Nhận xét và đánh giá
Xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam trong thời gian tới
Một số đề xuất cải cách thuế ở Việt Nam trong thời gian tới
Vấn đề cần xem xét sửa đổi
Định hướng chung đề xuất
Phần kết luận
Phần tài liệu tham khảo
PHẦN NỘI DUNG
TỔNG QUAN THUẾ VỀ CẢI CÁCH THUẾ
Thuế và cơ cấu hệ thống thuế
Thuế là một khoản nộp của các tổ chức và cá nhân cho nhà nước theo luật định. Thuế gắn liền với sự tồn tại của nhà nước. Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, thuế đã thay đổi và phát triển theo sự phát triển của các chức năng của nhà nước. Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, thuế chỉ đơn thuần là công cụ tạo nguồn thu cho nhà nước; đến nền kinh tế hiện đại, thuế còn tham gia vào quá trình điều tiết nền kinh tế.
ASTON JEZE, một trong những nhà tài chính học đã định nghĩa: "THUẾ là một khoản đóng góp bằng tiền mà chính quyền đòi hỏi ở các tư nhân, đóng góp vĩnh viễn, không đối phần, để tài trợ các gánh nặng công cộng".
Hệ thống thuế là tập hợp các sắc thuế có mối quan hệ biện chứng, phụ thuộc bổ sung lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ. Cơ cấu hệ thống thuế là cách tổ chức, sắp xếp của các sắc thuế trong tổng thể hệ thống thuế nhằm thực hiện mục tiêu của Nhà nước. Nghiên cứu cơ cấu thuế cho phép nhận ra được vị trí, tầm quan trọng của từng sắc thuế trong tổng thể nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Nếu căn cứ vào phương thức đánh thuế, hệ thống thuế được chia thành hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Thuế trực thu thực sự được thu từ các cá nhân là đối tượng nộp thuế theo luật định. Vì vậy, các đối tượng nộp thuế rất khó chuyển dịch gánh nặng thuế của mình cho người khác. Thuế trực thu có xem xét đến hoàn cảnh của các cá nhân nộp thuế và có biểu thuế suất lũy tiến. Ơ Việt Nam, thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập của người nộp thuế như: Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế gián thu không đánh trực tiếp vào thu nhập hay tài sản mà đánh gián tiếp thông qua việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng nhưng lại được thu từ các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, gánh nặng thuế có thể được chia sẻ giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Khác với thuế trực thu, thuế gián thu không tính đến hoàn cảnh của các cá nhân. Thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
- Nếu căn cứ vào cơ sở tính thuế, thì hệ thống thuế được chia thành ba loại là thuế thu nhập, thuế tiên dùng và thuế tài sản.
Nếu thuế được tính dựa vào thu nhập phát sinh thì ta gọi là thuế thu nhập. Vì thu nhập có nhiều dạng nên thuế thu nhập cũng có nhiều dạng như: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty.
Nếu thuế được tính dựa vào chi tiêu thì ta gọi là thuế tiêu dùng. Các sắc thuế thuộc loại thuế tiêu dùng là thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa thuế và thu nhập, có các loại thuế lũy tiến, thuế lũy thoái và thuế tỷ lệ.
Thuế lũy tiến là loại thuế có thuế suất trung bình tăng khi thu nhập tặng. Một đặc điểm khác để xác định hệ thống thuế lũy tiến là thuế suất biên luôn cao hơn thuế suất trung bình, chẳng hạn như thuế thu nhập cá nhân. Nếu thuế được tính dựa vào thu nhập tích lũy (giá trị tài sản) thì ta gọi là thuế tài sản. Thuế có thuế suất trung bình giảm khi thu nhập tăng được gọi là thuế lũy thoái, chẳng hạn như thuế giá trị gia tăng. Thuế có thuế suất trung bình không thay đổi khi thu nhập thay đổi gọi là thuế tỷ lệ.
Xu hướng cải cách thuế
Cải cách chính sách thuế của các nước trên thế giới hiện nay đều theo hướng làm thay đổi cơ cấu thuế. Cụ thể, tỷ trọng thuế trực thu trong cơ cấu tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) từ thuế sẽ tăng lên. Điều này do bởi số thu từ thuế nhập khẩu sẽ giảm đi theo lộ trình cắt giảm thuế quan đơn lẻ hay theo các cam kết đa phương. Tuy nhiên, thuế tài sản (thuộc loại thuế trực thu) có xu thế giảm dần trong tổng thu ngân sách, đặc biệt ở các nước phát triển.
Cắt giảm thuế suất biên đối với thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân nhằm tránh sự bóp méo do thuế suất biên cao và do cạnh tranh “thuế rẻ” giữa các quốc gia thời mở cửa. Trào lưu cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhanh chóng trở thành hiện tượng khó ngăn cản đầu tiên là giữa các nước phát triển sau đó là các nước đang phát triển. Đi đôi với xu hướng giảm thuế suất biên là việc mở rộng cơ sở đánh thuế đối với thuế thu nhập là để bù đắp thiếu hụt tài chính bằng hai cách:
Cách thứ nhất là tăng cường đánh thuế vào những khoản thu nhỏ, lặt vặt mà trước đây chưa đưa vào diện đánh thuế. Đối với thuế thu nhập công ty, một loạt những ưu đãi miễn giảm trước đây bị xóa bỏ hoặc hạn chế. Xu hướng này đặc biệt được thể hiện rõ nét tại các nước như Úc, Áo, Phần Lan, Đức, Đan Mạch, Ireland, Bồ đào nha, Tây ban nha và Mỹ.
Cách thứ hai là loại bỏ hoặc hạn chế những khoản ưu đãi, miễn giảm, khấu trừ không cần thiết. Đa số các nước phát triển áp dụng biện pháp này ở những mức độ khác nhau. Việc mở rộng cơ sở đánh thuế này đã cơ bản bù đắp sự thiếu hụt nguồn thu do việc cắt giảm thuế suất gây nên tuy không được bù đắp hoàn toàn (năm 1980 tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân của các nước trong khối OECD là 10,9% GDP, trong khí đó tỷ lệ này vào năm 1995 là 10,4%).
Tỷ trọng thuế gián thu trong tổng thu NSNN từ thuế sẽ giảm nhưng mức độ khác nhau tùy thuộc vào tình hình nhập khẩu của mỗi nước. Tuy nhiên, so với số thu từ thuế trực thu thì sự giảm này không lớn, vì một phần số thu từ thuế nhập khẩu giảm đi sẽ được bù đắp bởi số thu tăng lên từ thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) có nguồn gốc nhập khẩu và nội địa. Sự làn truyền nhanh chóng của trào lưu áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu trên phạm vi toàn cầu.
Theo thống kê của IMF, đến nay trên toàn thế giới đã có hơn 120 nước áp dụng thuế GTGT. Song song với việc phổ cập áp dụng thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT cũng có xu hướng được điều chỉnh theo hướng nâng cao làm cho GTGT ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng ở khối các nước phát triển.
Những xu thế cải cách thuế nêu trên là yêu cầu tất yếu đặt ra cho mỗi quốc gia trong quá trình mở cửa hội nhâp kinh tế, nhằm thúc đẩy các quan hệ thương mại và đầu tư. Như vậy, những đặc trưng cơ bản của cải cách thuế trên thế giới diễn ra vào thời kỳ mở cửa hội nhập đó là: Tỷ lệ động viên thông qua thuế so với GDP vẫn còn xu hướng tăng. Thuế GTGT được áp dụng phổ biến. Cơ cấu thuế phát triển theo hướng tỷ trọng thuế trực thu có xu hướng tăng và tỷ lệ thuế gián thu giảm. Đơn giản hóa hệ thống thuế, cải tiến công tác thực hành thu nhằm giảm thiểu chi phí hành chính thuế là một trong những mục tiêu trong tiến trình “cạnh tranh thuế” giữa các quốc gia.
Như vậy, việc hoạch định chính sách thuế không còn đơn giản là vấn đề độc lập của từng quốc gia. Cải cách thuế trên thế giới đã đi theo một xu hướng rõ rệt và tỏ ra khá đồng điệu giữa các quốc gia trên thế giới. Xu hướng bao trùm của cải cách thuế là chính sách thuế nghiêng nhiều về khía cạnh hiệu quả và tính cạnh tranh hơn khía cạnh công bằng.
Lịch sử cải cách thuế diễn ra ở các nước cho thấy quá trình này chịu ảnh hưởng sân sắc bới các lý thuyết thuế: i) Cải cách thuế để thiết lập hệ thống thuế tối ưu; ii) Cải cách thuế để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển; iii) Cải cách thuế do yêu cầu hội nhập quốc tế.
Xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam là: i) Về chính sách là thực hiện mở rộng đối tượng chịu thuế, mở rộng cơ sở nộp thuế và hạ thấp thuế suất, xoá bỏ dần những quy định về miễn giảm làm méo mó hệ thống thuế. ii) Về quản lý thu, sẽ thực hiện cải cách theo hướng tự kê khai nộp thuế, mở rộng quyền chủ động cho các đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế sẽ thực hiện chức năng của cơ quan phục vụ là hướng dẫn, hỗ trợ và kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các nghĩa vụ thuế của đối tương nộp thuế.
Quan điểm Nhà nước về thuế hiện nay không phải là tăng thuế suất để tăng nguồn thu mà chủ yếu là mở rộng diện thu thuế và tăng cường chống thất thu: Tăng thu trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khai thác và quản lý chặt chẽ nguồn thu, chống thất thu có hiệu quả.
Sự cần thiết cải cách thuế ở Việt Nam
Vấn đề tài khóa
Những động năng của cải cách thuế có thể được tập trung vào bốn khía cạnh: tài khóa, kinh tế, chính trị, và hành chính. Đối với khía cạnh tài khóa, hoạt động cải cách thuế là nhằm làm tăng thu ròng cho ngân sách. Các nhà kinh tế thường xem đây là một thước đo quan trọng nhất để đánh giá sự thành công hay thất bại của chiến lược cải cách thuế. Trong điều kiện Việt Nam, tình trạng thâm hụt ngân sách quá cao trong nhiều năm đã đặt ra một yêu cầu phải cơ cấu lại cán cân ngân sách, trong đó cải cách thuế trên cơ sở gia tăng nguồn thu là một nhánh của quá trình.
Tăng nguồn thu ròng cho ngân sách được định nghĩa bao gồm cả số tuyệt đối và số tương đối. Trong khi nhu cầu chi tiêu ngân sách của Việt Nam ngày càng tăng nhanh do yêu cầu của tiến trình phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì những nguồn tài trợ cho nhu cầu đó lại không tăng nhanh tương ứng.
Tình trạng bội chi ngân sách lớn và kéo dài đã làm cho không gian tài khóa trở nên chật hẹp, qua đó làm giảm tính chủ động của chính phủ trong các phản ứng chính sách, đặc biệt trong điều kiện thực hiện các gói kích thích kinh tế thời gian qua.
Việc hội nhập vùng và gia nhập WTO buộc Việt Nam phải cắt giảm các hạng mục thuế ngoại thương, trong khi cơ sở thuế của các sắc thuế khác không được mở rộng cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới. Như vậy, tăng số thu ngân sách tuyệt đối phải phù hợp với nhu cầu chi tiêu ngân sách và những cơ sở để đảm bảo khả năng tăng thu.
Quy mô của hoạt động thu ngân sách cũng cần phải được so sánh với quy mô nền kinh tế từng thời kỳ. Không nhất thiết phải duy trì một tỷ lệ quá cao giữa tổng thu ngân sách so với GDP bởi như vậy quy mô của khu vực công có thể là quá lớn sẽ gây nên hiệu ứng chèn lấn đầu tư khu vực tư nhân, trong khi điều đáng nói là hiệu quả đầu tư của khu vực công luôn thấp hơn so với khu vực tư nhân. Tuy nhiên, một tỷ lệ quá thấp cũng gây áp lực lên các hoạt động chi tiêu công, giảm các phản ứng chủ động linh hoạt của chính phủ trước các bất ổn vĩ mô có thể phát sinh.
Tạo ra một cơ cấu thu ngân sách hợp lý và bền vững hơn cũng là một mục tiêu quan trọng của cải cách thuế. Hiện tại cơ cấu nguồn thu ngân sách của Việt Nam đang dần trở nên bất hợp lý, do quá phụ thuộc vào xuất khẩu dầu thô, ngoại thương, và doanh nghiệp nhà nước, trong khi những nguồn thu này lại thiếu tính bền vững. Chính vì vậy, chiến lược cải cách thuế còn phải hướng đến tái cấu trúc nguồn thu thuế, đảm bảo tính bền vững hơn cho ngân sách trong dài hạn.
Vấn đề tái phân phối thu nhập và công bằng xã hội
Động cơ của cải cách thuế còn liên quan đến các vấn đề chính trị và xã hội, đó là khả năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo các tiến bộ và công bằng xã hội. Trong khi kinh tế ngày càng phát triển thì xã hội cũng ngày càng có sự phân hóa thu nhập, của cải và giàu nghèo sâu sắc hơn. Vai trò của chính phủ là giảm sự phân hóa đó bằng cách tái phân phối lại thu nhập của xã hội, tức cũng để đảm bảo tính công bằng hơn cho phát triển. Khi mục tiêu này không đạt được sẽ có nguy cơ dẫn đến những bất mãn trong xã hội.
Tính chất công bằng trong một chính sách thuế liên quan đến cả công bằng dọc và công bằng ngang. Công bằng dọc tức là người có thu nhập cao hơn phải đóng góp nhiều hơn, trong khi công bằng ngang phải đảm bảo mức đóng góp như nhau cho những người có thu nhập ngang bằng nhau. Thế nhưng thực tế cho thấy Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện nay vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu này, trong khi Dự thảo Luật thuế nhà, đất thực chất đã thất bại nếu đánh giá trên các khía cạnh công bằng của nó.
Quá trình đổi mới kinh tế và cải cách thể chế ở Việt Nam đã tạo cơ hội cho một bộ phận người giàu lên nhanh chóng nhưng lại tạo ra một tầng lớp người nghèo mới. Thế nhưng, có một thực tế là không phải người nào giàu nhất cũng đang đóng thuế nhiều nhất nhưng lại có những nhóm người nghèo lại phải gánh những khoản thuế quá mức so với thu nhập và nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của họ. Cải cách cơ chế tiền lương theo hướng minh bạch, chẳng hạn như giảm các khoản phụ cấp không qua lương, cũng sẽ góp phần làm tăng tính hiệu quả cho công cuộc cải cách thuế hướng đến mục tiêu công bằng hơn và hiệu quả hơn.
Vấn đề hiệu quả trong phân bổ nguồn lực
Cải cách thuế còn phải làm tăng tính hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực vốn có tính hữu hạn của nền kinh tế. Do một chính sách thuế bất kỳ sẽ làm thay đổi hành vi của các thực thể trong nền kinh tế, nên việc cải cách thuế sẽ giúp điều chỉnh lại các khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế, khuyến khích khởi nghiệp và tinh thần doanh nhân.
Thông qua các chính sách thuế, chính phủ có thể tạo ra các động cơ khuyến khích có tính kinh tế để khu vực tư nhân phân bổ vốn và các ngành nghề và lĩnh vực mục tiêu, hơn là các can thiệp hành chính gây méo mó các quan hệ thị trường. Một số dạng thức thị trường mới nổi ở Việt Nam như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản rất cần có các chính sách thuế mới của Chính phủ để điều tiết và phân bổ lại nguồn lực thích hợp. Nguyên tắc quan trọng là cải cách thuế phải làm giảm tổn thất phúc lợi vô ích của xã hội bằng cách tạo ra một sắc thuế có mức thuế suất thấp nhưng có cơ sở thuế rộng hơn.
Vấn đề hành chính thuế
Hệ thống quản lý thu thuế ở Việt Nam được đánh giá là kém hiệu quả, trong khi mức độ tuân thủ của người nộp thuế thấp. Do vậy, khía cạnh hành chính thuế ở Việt Nam vừa mang tính mục tiêu, vừa mang tính hỗ trợ cho các cuộc cải cách thuế. Cải cách hành chính thuế phải tập trung vào ba lĩnh vực bao gồm giảm sự quá tải của hệ thống quản lý thuế, giảm chi phí tuân thủ thuế và giảm chi phí quản lý thu thuế.
Sự quá tải của hệ thống quản lý thuế hiện nay không chỉ cho thấy sự gia tăng về quy mô và tính phức tạp của hệ thống thuế mà còn là sự lạc hậu của mô hình quản lý thuế cũ không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Thực trạng đó cho thấy sự cần thiết phải thay đổi một cách căn bản và toàn diện phương thức quản lý một hệ thống thuế mới phù hợp hơn, có tính động và hiệu quả hơn. Giảm chi phí tuân thủ thuế cũng là một mục tiêu quan trọng. Do hệ thống thuế hiện nay quá phức tạp và rườm rà trong các thủ tục hành chính đã làm tăng các chi phí tuân thủ thuế của người nộp thuế.
Các doanh nghiệp hàng năm phải mất hàng nghìn giờ công cho các thủ tục liên quan đến thuế. Nếu nhân con số này với số doanh nghiệp nộp thuế sẽ thấy được một sự lãng phí ghê gớm về mặt nguồn lực mà nền kinh tế phải bỏ ra hàng năm. Bên cạnh đó, việc giảm chi phí quản lý thu thuế cũng là một đòi hỏi cần thiết. Một phần lý do chi phí này quá cao nằm ở hệ thống quản lý thuế quá cồng kềnh lại không hiệu quả, phần khác do sự suy giảm về sức thu trong một số sắc thuế. Yêu cầu của cải cách thuế không chỉ là tái cơ cấu lại nguồn thu như đã đề cập ở trên mà còn phải tái cơ cấu lại cách thức quản lý hệ thống hành thu của các cơ quan thuế trên cơ sở giảm chi phí và tăng hiệu quả quản lý thuế.
Những khó khăn, thử thách cải cách thuế ở Việt Nam
Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, có khả năng tài trợ nhu cầu chi cần thiết của chi tiêu công. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới, thì chính sách thuế đóng vai trò nhạy cảm đặc biệt. Như vậy, hệ thống thuế cần: (i) gia tăng đầy đủ nguồn thu để tài trợ nhu cầu chi tiêu cần thiết mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công; (ii) gia tăng nguồn thu trong cách thức đảm bảo công bằng và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế; (iii) gia tăng nguồn thu trong cách thức không làm chệnh hướng đáng kể những thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.
Với một nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam, việc thiết lập một hệ thống thuế có hiệu quả và hiệu lực gặp phải không ít những khó khăn nhất định:
- Một là, cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những khó khăn nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; đối với khu vực tư nhân mặc dù sự đóng góp vào GDP ngày