Cán cân thương mại của một quốc gia phản ánh khối lượng xuất nhập khẩu về hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các nước khác. Về mặt kinh tế, cán cân thương mại thể hiện mối quan hệ tương quan giữa việc tăng hay giảm lượng giá trị của một nền kinh tế nghĩa là nó phản ánh lượng tiền tăng lên hoặc giảm đi của một quốc gia trong một thời gian nhất định.
Trạng thái của cán cân thương mại thường rơi vào 3 trạng thái. Trạng thái của cán cân thương mại được dựa vào sự chênh lệch của giá trị giao dịch xuất khẩu và nhập khẩu.
+ Khi mức chênh lệch là lớn hơn không, thì cán cân thương mại có thặng dư.
+ Khi mức chênh lệch nhỏ hơn không, thì cán cân thương mại có thâm hụt.
+ Khi mức chênh lệch đúng bằng không, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Và điều đáng nói là hầu như các nước trên thế giới đều rơi vào trạng thái thâm hụt thương mại, đặc biệt là các nước phát triển.
Vấn đề đặt ra là liệu thâm hụt cán cân thương mại có đồng hành cùng với sự trì trệ của GDP hay đó là dấu hiệu của một sự tăng trưởng kinh tế.
18 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8057 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam sau gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
LỚP 24TC_4_T02, KHOA CƠ BẢN
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
THỰC TRẠNG CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
SAU GIA NHẬP WTO
NHÓM 4
Trương Ngọc An
Vũ Tiến Đạt
Ngô Hiền Đức
Nguyễn Thị Thanh Hường
Nguyễn Cát Tường Linh
Trương Ngọc Thanh Thanh
Nguyễn Mai Thảo
Hồ Trung Thịnh
Nguyễn Phương Thúy
TP.Hồ Chí Minh, 20/4/2010
1. MỞ ĐẦU
Thâm hụt cán cân thương mại là một vấn đề rất được quan tâm, chú trọng của nhiều quốc gia trên thế giới, do những tác động của nó đến các cân đối vĩ mô. Có câu: “Cuộc sống mà không có thách thức thì không gọi là cuộc sống”. Do vậy, là thành viên mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam phải chấp nhận những thách thức đặt ra của kinh tế toàn cầu, cùng với đó là sự đối mặt trước cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và suy giảm kinh tế.
Thách thức mà Việt Nam gặp phải hiện nay là cán cân thương mại đang rơi vào tình trạng thâm hụt khá nghiêm trọng. Các số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong 8 năm gần đây cán cân thương mại của nước ta thường xuyên bị thâm hụt, đặc biệt là kể từ khi gia nhâp WTO. Vì vậy, khi nghiên cứu nền kinh tế vĩ mô Việt Nam không thể không nhắc tới vấn đề đáng quan tâm này – một bài toán khó chưa tìm ra giải pháp toàn diện.
Đây là lí do chúng tôi nghiên cứu và chọn vấn đề này viết tiểu luận kinh tế vĩ mô. Mục đích đặt ra là giúp hình thành khái quát về cán cân thương mại và đi sâu hơn về tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam, nhằm bổ sung hiều biết phần nào và có cái nhìn tổng quan về kinh tế vĩ mô. Đồng thời thực hành khả năng làm việc theo nhóm, tập thể, đưa ra ý kiến, quan điểm cá nhân, học hỏi lẫn nhau.
2. NỘI DUNG
2.1 Bản chất cán cân thương mại
2.1.1 Cán cân thương mại
Cán cân thương mại của một quốc gia phản ánh khối lượng xuất nhập khẩu về hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các nước khác. Về mặt kinh tế, cán cân thương mại thể hiện mối quan hệ tương quan giữa việc tăng hay giảm lượng giá trị của một nền kinh tế nghĩa là nó phản ánh lượng tiền tăng lên hoặc giảm đi của một quốc gia trong một thời gian nhất định.
Trạng thái của cán cân thương mại thường rơi vào 3 trạng thái. Trạng thái của cán cân thương mại được dựa vào sự chênh lệch của giá trị giao dịch xuất khẩu và nhập khẩu.
+ Khi mức chênh lệch là lớn hơn không, thì cán cân thương mại có thặng dư.
+ Khi mức chênh lệch nhỏ hơn không, thì cán cân thương mại có thâm hụt.
+ Khi mức chênh lệch đúng bằng không, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Và điều đáng nói là hầu như các nước trên thế giới đều rơi vào trạng thái thâm hụt thương mại, đặc biệt là các nước phát triển.
Vấn đề đặt ra là liệu thâm hụt cán cân thương mại có đồng hành cùng với sự trì trệ của GDP hay đó là dấu hiệu của một sự tăng trưởng kinh tế.
Phân tích cán cân thương mại của nước Mỹ, ta thấy rằng từ những năm 70 Mỹ luôn công bố thâm hụt thương mại và tình trạng này gia tăng một cách nhanh chóng từ những năm 1997. Điểm đáng chú ý là sự thâm hụt giảm đi trong suốt quá trình trì trệ (chẳng hạn như năm 1991, một năm khủng hoảng, trì trệ thì cán cân thương mại lại thặng dư) và tăng lên trong những giai đoạn phát triển.
Thâm hụt thương mại thường diễn ra ở nhiều nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế hấp thụ vốn đầu tư tốt, đầu tư hiệu quả thì thâm hụt thương mại cao là tiền đề cho sự tăng trưởng trong các giai đoạn phát triển tiếp theo và ngược lại.
2.1.2 Các nhân tố tác động tới cán cân thương mại
a) Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá 1 chiếc TV sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá 1 chiếc TV Nhật Bản sản xuất thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều TV Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
b) Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng.
c) Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi VND lên giá ( tỷ giá giảm) thì sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi VND mất giá (tỷ giá tăng), xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi.
Ngoài ra còn có các yếu tố ảnh hưởng như:
+ Các chính sách của chính phủ đối với thương mại.
+ Thu nhập của người tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng nước ngoài.
+ Các chu kỳ kinh tế của quốc gia và thế giới.
2.1.3 Tác động của cán cân thương mại tới các biến số kinh tế
Thứ nhất, cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ. Chẳng hạn, nếu một nước nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu nghĩa là cung đồng tiền quốc gia đó có khuynh hướng vượt cầu trên thị trường hối đoái nếu các yếu tố khác không thay đổi. Và như vậy, có thể suy đoán rằng, đồng tiền nước đó sẽ bị sức ép giảm giá so với các đồng tiền khác. Ngược lại, nếu một quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu thì đồng tiền của quốc gia đó có khuynh hướng tăng giá.
Thứ hai, cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc gia. Nếu như một nước trong nhiều năm liền bị thâm hụt thương mại trầm trọng thì thể hiện các ngành sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh quốc tế. Và ngược lại, thặng dư cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh cao của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cũng cần phải tính đến yếu tố là một số nước có chính sách hạn chế nhập khẩu (bảo hộ cao cho khả năng sản xuất trong nước) còn xuất khẩu có thể tăng mạnh nhờ khai thác được lợi thế như các sản phẩm thô, lao động rẻ… ở giai đoạn đầu của quá trình tự do hóa thương mại nên có thể xảy ra tình trạng thặng dư thương mại. Nhưng tình trạng này không nên kéo dài vì sẽ dẫn đến việc hàng hóa trong nước sẽ không có khả năng cạnh tranh với hàng hóa quốc tế về dài hạn.
Thứ ba, tình trạng của cán cân thương mại phản ánh tình trạng của cán cân tài khoản vãng lai và nợ nước ngoài, do đó có ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là ảnh hưởng quan trọng nhất của cán cân thương mại tới nền kinh tế và dựa vào đó nhà nước có thể đưa ra các chính sách để có thể điều chỉnh cán cân thương mại đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, cán cân thương mại thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế:
X – M = ( S – I ) + ( T – G )
Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt thì điều đó thể hiện quốc gia chi nhiều hơn thu nhập của mình cũng như tiết kiệm sẽ ít hơn đầu tư và ngược lại.
Vì những tác động to lớn của cán cân thương mại tới nền kinh tế nên các nhà kinh tế và quản lý luôn tìm cách dự báo những cơ hội cũng như thách thức để có thể đề ra những giải pháp thiết thực cho xuất nhập khẩu trong thời gian sắp tới từ đó giúp điều tiết vĩ mô một cách tốt hơn.
2.2 Thực trạng và nguyên nhân
2.2.1. Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ kí kết vào năm 2000 và có hiệu lực vào cuối năm 2001 tạo thuận lợi cho sự gia tăng đáng kể giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam so với giai đoạn trước đó. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng không ổn định.
Năm
KN xuất khẩu (tr.USD)
Tốc độ tăng XK(%)
KN nhập khẩu
(tr.USD)
Tốc độ tăng NK(%)
Cán cân thương mại
2000
14.482
25,5
15.636
33,2
-1.154
2001
15.027
3,8
16.162
3,4
-1.135
2002
16.705
11,2
19.733
21,8
-3.028
2003
20.176
20,8
25.226
27,8
-5.050
2004
26.500
28,9
31.516
24,9
-5.116
2005
32.447
22,4
36.761
16,6
-4.314
2006
39.826
22,7
44.891
22,1
-5.065
Sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại (WTO), hoạt động ngoại thương nói chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt giảm.
Năm 2007
Năm 2007, kinh tế toàn cầu chịu nhiều ảnh hưởng bởi những biến động lớn về giá hàng hoá, chủ yếu là do giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực phẩm tăng cao liên tục. Những biến động thất thường của giá dầu thô, giá vàng cùng với dấu hiệu suy thoái kinh tế Hoa Kỳ, đồng đô la mất giá nhanh so với các ngoại tệ mạnh khác đã tác động không tốt và lan tỏa tới nhiều nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 48,4 tỷ USD tăng 21,5 % so với năm 2006 và vượt 15,5% so với kế hoạch. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%. Mặc dù đã là thành viên chính thức của WTO, nhưng xuất khẩu trong những tháng đầu năm dường như chưa đạt mức tăng trưởng tương xứng so với tiềm năng và cơ hội mang lại. Kết quả là xuất khẩu chỉ tăng bình quân 22%. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, cao su, gạo… đều có mức tăng trưởng không cao. Lượng hàng hóa xuất khẩu tăng khá, nhưng chưa có nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, có khả năng bù đắp phần thiếu hụt khi giá và lượng dầu thô xuất khẩu giảm. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là thủy sản và thực phẩm chưa thực sự ổn định, vẫn còn nhiều lô hàng bị trả lại.
Trong khi đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ USD tăng 35,5% so với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới.
Trong năm 2007, thị trường xuất siêu của nước ta là khu vực Mỹ, EU… nhưng thị trường nhập siêu lại là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…
Như vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm này là 109,2 USD với tình hình nhập siêu lên tới 12,45 tỷ USD bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Mức nhập siêu như thế là rất cao, vượt xa so với năm trước và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch, bởi lẽ ngay cả một số sản phẩm mà trong nước có thể sản xuất được thì chúng ta vẫn phải nhập khẩu. Đồng thời do hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước chưa được tốt nên nhiều mặt hàng không cạnh tranh được với các sản phẩm ngoại nhập.
Năm 2008
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, từ đó cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta năm 2008.
Về xuất khẩu: Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%.
Về nhập khẩu: Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng còn lại, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp; một trong những nguyên nhân chính là do giá hàng nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007.
Như vậy, mức thâm hụt cán cân thương mại lên đến 17,5 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Báo động đối với Việt Nam là thâm hụt cán cân thương mại đã ở mức đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với quốc gia láng giềng Trung Quốc. Trong tổng mức thâm hụt 17,5 tỉ USD hàng hoá của Việt Nam với thế giới thì riêng thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới 12 tỉ USD, tiếp đến là thâm hụt thương mại với các đối thủ cạnh tranh là các nước ASEAN và Hàn Quốc.. chỉ thặng dư với Hoa Kỳ và EU.
Năm 2009
Do những hậu quả còn tồn đọng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, nên cán cân thương mại Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thâm hụt cao. Tuy nhiên, con số thâm hụt đã giảm hơn so với năm trước.
Về quy mô xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch (kế hoạch điều chỉnh tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giảm 13,5% so với năm 2008; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 26,7 tỷ USD, chiếm 47,2%. giảm 5,1%, so với năm 2008.
Nhập khẩu: kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009 khoảng 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008 (năm 2008 so với 2007 tăng 28,7%), trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,1% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước, giảm 10,8%; Kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008.
Năm 2009, Trung Quốc vẫn là thị trường dẫn đầu về cung cấp hàng nhập khẩu cho nước. Tiếp theo là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia …
Với nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng không cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất được, khối lượng một số hàng hóa nhập khẩu năm 2009 cũng đã giảm hơn năm 2008, tuy nhiên một số loại hàng hóa khác vẫn còn có mức nhập khẩu cao (như máy móc, thiết bị, dược phẩm, tơ sợi…). Do đó, mặc dù giá nhập khẩu giảm nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm chậm, dẫn đến mức nhập siêu vẫn còn cao hơn mục tiêu đề ra.
Cán cân thương mại nước ta luôn nằm trong tình trạng thâm hụt, đặc biệt đang có xu hướng tăng nhanh vào những năm gần đây. Và thực tế cho thấy các mặt hàng xuất khẩu chưa có giá trị cao, giá cả cũng không ổn định. Đó là một điều đáng báo động cho nền kinh tế nước ta.
2.2 Nguyên nhân
2.2.1 Nguyên nhân khách quan
Nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế chưa đủ tiềm lực để sản xuất các mặt hàng về công nghiệp hay những mặt hàng đòi hỏi kĩ thuật cao. Bởi vậy, việc chúng ta nhập siêu liên tục từ năm 1986 đến nay là điều không thể tránh khỏi. Không thể nói nhập siêu là điều không tốt, nếu như chúng ta sử dụng nhập siêu để mà có thể trang bị máy móc thiết bị để dùng cho công cuộc kiến thiết đất nước. Khi mà một đất nước nhập những hàng hoá có thể sản xuất được, hay là cho nhập khẩu những sản phẩm không cần thiết và nhập với tỉ lệ quá lớn thì đó là điều rất đáng lo ngại.
Từ tháng 9- 2008, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toán cầu đã bắt đầu thể hiện trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh, đặc biệt ở mặt hàng dầu thô, nông sản, thủy sản.Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu làm giảm khá mạnh nhu cầu về hàng nhập khẩu của các nước, đặc biệt là sự suy giảm mạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ - bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam đã làm giảm kim nghạch xuất khẩu. Năm 2009, thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch 11,2 tỷ USD, giảm 5,5% so với năm 2008.
Bên cạnh những tác động thuận lợi khi mở cửa hội nhập, nới lỏng các rào cản thương mại, và đặc biệt là gia nhập WTO, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức. Việt Nam đang trong thời kỳ thực hiện các cam kết về giảm thuế quan và các hạn chế thương mại, mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế. Trong khoảng thời gian kể từ ngày gia nhập, mức thuế nhập khẩu trung bình của Việt Nam phải giảm từ 17,4% xuống còn 13,4% trong vòng 5-7 năm cho nên kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu trong ngắn hạn và xu hướng này còn có khả năng tăng nhanh hơn nữa trong thời gian tới khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong WTO.
Đặc biệt các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã quen với việc sản xuất những hàng hoá và dịch vụ phục vụ thị trường nội địa trong điều kiện có bảo hộ bằng thuế quan hoặc các hàng rào phi thuế quan thì nay phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đây là một thách thức vô cùng lớn, nếu không có lợi thế tất yếu sẽ bị loại bỏ, trước hết là các doanh nghiệp thương mại. Như vậy sẽ gia tăng sức ép cạnh tranh quốc tế khắc nghiệt ngay trong thị trường nội địa. Các cơ sở xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả với các rào cản thương mại và những biến động khó lường của thị trường thế giới, bởi các rào cản thương mại quốc tế được các nước nhập khẩu dựng lên ngày càng tinh vi, phức tạp.
2.2.2 Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nhân tố khách quan, chúng ta phải kể đến những nhân tố chủ quan, làm cho tình hình thâm hụt cán cân thương mại ngày càng trầm trọng như hiện nay.
Nước ta vẫn là một nước xuất thô, nhập tinh. Kể từ năm 2002-2008, các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta đang ở mức tăng rất thấp (vào khoảng 10-12%). Hiện nay các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu hàng đầu của Việt nam vẫn là các mặt hàng sử dụng tài nguyên thiên nhiên và công nghiệp nhẹ, sử dụng lao động rẻ mạt. Trong khi đó, nước ta chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu. Khi giá cả hàng hóa nước ngoài đắt hơn thì nhu cầu trong nước đối với hàng hóa nước ngoài sẽ giảm, nhưng giảm rất ít do đó là những mặt hàng thiết yếu.
Từ tình hình thực tế trên cho ta thấy các mặt hàng mà nước ta xuất khẩu là những mặt hàng có khả năng thu ngoại tệ không cao, giá cả biến động phụ thuộc rất nhiều vào giá của thế giới. Các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su, hàng may mặc, giày dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Tuy nhiên những mặt hàng này ngày càng bị đánh giá khắt khe hơn, đòi hỏi chất lượng cao hơn, và còn phụ thuộc vào thời tiết khí hậu. Các mặt hàng thuỷ sản của nước ta vẫn tiếp tục bị đánh thuế bán chống phá giá, gây tổn hại lớn cho nền kinh tế. Bởi thế ngoại tệ thu được của các ngành hàng này không ổn định.
Trong khi đó về nhập khẩu, chúng ta nhập khẩu một lượng hàng lớn nguyên liệu, đặc biệt là phục vụ cho dệt may, da giày. Nhưng điều cần xem xét ở đây là nguyên vật phụ liệu đã chiếm trên 50%, chưa kể công mà chúng ta làm ra, rồi lại mang đi bán. Như vậy ngoại tệ thực sự cũng chẳng bao nhiêu.
Nguyên nhân sâu xa chính là chất lượng của hàng Việt Nam không thể đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thế giới. Bởi vậy ngay cả những nguyên liệu tưởng chừng như đơn giản, có thể sản xuất được trong nước, chúng ta vẫn phải nhập khẩu nhiều. Điều này cần đáng lưu ý hơn, khi thị trường xuất khẩu ngày càng khắt khe hơn đối với hàng hóa nước ta. Cũng cùng lý do đó, lượng gạo của Việt Nam chỉ đứng sau Thái Lan nhưng chúng ta lại phải chịu mức giá thấp hơn rất nhiều. Hàng loạt người dân nuôi cá tra, cá ba sa dư cá, trong khi nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp lại thiếu hụt. Chất lượng cà phê, cao su của Việt Nam bị phản ánh trong những năm gần đây, chất lượng gạo không tốt, chứa quá nhiều độc tố, cá nuôi có quá nhiều dư chất... chính chất lượng hàng hoá của Việt Nam đã dẫn đến việc nhập khẩu quá nhiều nguyên vật liệu không cần thiết.
Trình độ phát triển kinh tế thấp, phụ thuộc thị trường thế giới về nguồn vốn, nguyên nhiên liệu, công nghệ… Ví dụ: các ngành sản xuất của ta phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu; cùng với đó là sự yếu kém công nghệ ảnh hưởng khả năng cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu nên xu hướng nhập khẩu thường cao hơn xuất khẩu. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại.
Hiệu quả