Quốc hội là cơ quan đứng đầu, quan quan trọng nhất của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó là cơ quan đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước. Sự đại diện đó thể hiện một cách trực tiếp thông qua những đại biểu Quốc hội. Đó là những công dân ưu tú, đuợc nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra, là những đại biểu chân chính của nhân dân. Họ là những người thay mặt nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cầu nối quan trọng giữa chính quyền và nhân dân. Đảm nhiệm những vai trò quan trọng như vậy, mọi hoạt động của đại biểu Quốc hội đều thể hiện ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề chính trị cũng như đời sống nhân dân. Vậy những đại biểu Quốc hội hiện nay đã và đang làm những gì với vị trí của mình. Chúng ta hãy tìm hiểu “Hoạt động của Đại biểu Quốc hội – Thực trạng và giải pháp” để hiểu rõ hơn vấn đề này cũng như thử tìm ra những giải pháp giúp hoạt động của đại biểu Quốc hội có hiệu quả hơn.
11 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2458 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng hoạt động của Đại biểu quốc hội trong gia đoạn hiện nay - giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
Quốc hội là cơ quan đứng đầu, quan quan trọng nhất của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó là cơ quan đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước. Sự đại diện đó thể hiện một cách trực tiếp thông qua những đại biểu Quốc hội. Đó là những công dân ưu tú, đuợc nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra, là những đại biểu chân chính của nhân dân. Họ là những người thay mặt nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cầu nối quan trọng giữa chính quyền và nhân dân. Đảm nhiệm những vai trò quan trọng như vậy, mọi hoạt động của đại biểu Quốc hội đều thể hiện ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề chính trị cũng như đời sống nhân dân. Vậy những đại biểu Quốc hội hiện nay đã và đang làm những gì với vị trí của mình. Chúng ta hãy tìm hiểu “Hoạt động của Đại biểu Quốc hội – Thực trạng và giải pháp” để hiểu rõ hơn vấn đề này cũng như thử tìm ra những giải pháp giúp hoạt động của đại biểu Quốc hội có hiệu quả hơn.
NỘI DUNG CHÍNH.
1. Khái quát chung.
1.1 Quốc hội:
Điều 83 Hiến pháp 1992 nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội (QH) là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. QH có quyền quyết định những vẫn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân như thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như việc bầu, miễn nhiệm những viên chức cao cấp nhất của bộ máy nhà nước. QH biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của nhân dân trên phạm vi toàn quốc. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua QH và Hội đồng nhân dân các cấp QH là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu quốc hội được cử tri bầu ra tại các đơn vị bầu cử, chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước.
Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 cụ thể hóa quan điểm về sự phân công và phối hợp giữa QH và các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm sử dụng có hiệu quả quyền lực nhà nước. QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nuớc cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. QH có 3 chức năng chính: chức năng lập pháp, chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. QH là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
1.2 Đại biểu Quốc hội:
Ðại biểu Quốc hội (ĐBQH) là người được nhân dân trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong QH. Đa số ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm. ĐBQH chịu trách nhiệm trước cử tri cả nước.
ĐBQH có một địa vị pháp lý hết sức đặc biệt. Đó là người đại diện của nhân dân đồng thời là đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. ĐBQH là cầu nối giữa chính quyền nhà nước với nhân dân và chịu trách nhiệm trước cả hai đối tượng này. Các ĐBQH thay mặt nhân dân thực hiện quyền lưc nhà nước trong QH. Địa vị pháp lý này đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp 1992 và các văn bản luật khác.
Nhiệm kỳ của ĐBQH được tính từ kỳ họp thứ nhất QH khoá đó đến kỳ họp thứ nhất QH khóa sau. Trong số các ĐBQH có những đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách và có những đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách. Số lượng ĐBQH làm việc theo chế độ chuyên trách do QH quyết định.
1.3 Các hình thức hoạt động của Quốc hội:
Các hình thức hoạt động của QH gồm:
Kì họp QH (Đây chính là hình thức hoạt động quan trọng nhất của QH).
Hoạt động của Ủy ban thường vụ QH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban QH.
Hoạt động của ĐBQH và đoàn ĐBQH.
Tuy nhiên, hình thức hoạt động thứ 3: hoạt động của các ĐBQH cũng có một ý nghĩa quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động của QH.
2. Thực trạng hoạt động của đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay.
2.1 Hoạt động của đại biểu Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
2.1.1 Nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội.
Được cử tri bầu ra nên ĐBQH phải chịu trách nhiệm trước cử tri đồng thời chịu trách nhiệm trước QH về việc thực hiện nhiệm vụ của mình, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri. Theo điều 97 hiến pháp 1992, điều 46 luật tổ chức QH và điều 3 quy chế hoạt động của ĐBQH quy định: ĐBQH phải thường xuyên tiếp xúc cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với QH và cơ quan hữu quan. ĐBQH có nhiệm vụ trả lời những yêu cầu của cử tri. ĐBQH phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân. ĐBQH có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp, các nghị quyết của QH và pháp luật của Nhà nước cũng như động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.
Theo điều 98 Hiến pháp 1992, điều 47 luật tổ chức QH và điều 6, 8, 9 Quy chế hoạt động thì ĐBQH có nhiệm vụ tham gia các kì họp QH chấp hành nghiêm chỉnh nội quy kì họp, tham gia và thảo luận những vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của mình góp phần tích cực làm cho kì họp đạt kết quả cao. ĐBQH có nhiệm vụ tham gia các phiên họp toàn thể của quốc hội, cuộc họp của Hội đồng dân tộc và đoàn ĐBQH. Khi là thành viên của Hội đồng dân tộc và các uỷ ban QH, các đại biểu phải tham gia hoạt động, hoàn thành các phần việc được giao, tham gia chương trình kế hoạch đều đặn cũng như có nhiệm vụ tham gia các hoat động của đoàn ĐBQH theo chương trình và lịch làm việc của đoàn. ĐBQH có nhiệm vụ giữ mối quan hệ và thông báo tình hình hoạt động của mình với chủ tịch QH và Uỷ ban MTTQ địa phương.
Ngoài ra ĐBQH còn có nhiệm vụ tiếp dân theo định kì. Đại biểu Quốc hội tiếp dân để lắng nghe ý kiến đóng góp của dân đồng thời giúp dân giải quyết kiến nghị, khiếu nại và tố cáo. Ngoài ra, ĐBQH còn có nhiệm vụ nghiên cứu, kịp thời chuyển những khiếu nại, tố cáo đó đến cơ quan có thẩm quyền xử lý; đôn đốc viêc giải quyết của cơ quan chức năng, nếu thấy chưa thoả đáng thì gặp người đứng đầu cơ quan hữu quan để yêu cầu xem xét lại theo quy định tại điều 97 Hiến pháp, điều 51, 52, 53 luật tổ chức Quốc hội và điều 12 quy chế hoạt động.
Quyền hạn của Đại biểu quốc hội:
Quyền hạn quan trọng nhất của ĐBQH là tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc nhiệm vụ quyền hạn của QH tại kỳ họp QH. Điều 98 Hiến pháp 1992, điều 48 và 49 luật tổ chức QH, điều 10 và điều 11 quy chế hoạt động của ĐBQH quy định ĐBQH có quyền tham gia thảo luận tranh luận hoặc những vấn đề đưa ra thảo luận thuộc nội dung kỳ họp. ĐBQH có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước QH, dự án pháp lệch ra trước Uỷ ban thường vụ QH theo quy định của pháp luật. ĐBQH có quyền biểu quyết các dự án luật, nghị quyết, các dự án, các báo cáo… Các đại biểu có quyền tự do thể hiện quan điểm của mình về một vấn đề đưa ra QH quyết định. ĐBQH có quyền tán thành hay không tán thành hoặc bỏ quyền biểu quyết. Tại kì họp ĐBQH còn có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC. Điều 50 của luật tổ chức QH còn quy định rằng ĐBQH có quyền kiến nghị với Uỷ ban thường vụ QH xem xét trình QH bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với những người do QH bầu hoặc phê chuẩn.
Điều 53 luật tổ chức QH và điều 15 quy chế hoạt động ĐBQH quy định khi phát hiện có hành vi gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, đơn vị vũ trang hoặc của công dân, ĐBQH có quyền yêu cầu đơn vị hữu quan có biện pháp cần thiết để ngăn chặn những hành vi đó. Sau 30 ngày các cơ quan này phải báo cho ĐBQH biết cách giải quyết, quá thời hạn này, các đại biểu có quyền kiến nghị với người đứng đầu các cơ quan đó, đồng thời báo cáo với Ủy ban thường vụ QH xem xét, quyết định.
ĐBQH có quyền găp gỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, kinh tế, đơn vị vũ trang cung cấp tài liệu có liên quan đến hoạt động của đại biểu (điều 54 luật tổ chức QH). Ngoài ra, ĐBQH có quyền tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan Nhà nước, cơ quan lãnh đạo, các tổ chức của QH.
Thêm nữa, theo điều 55, ĐBQH có quyền tham dự các kì họp Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình được bầu, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không được biểu quyết. ĐBQH tham dự kì họp đó nhằm nắm bắt tình hình và tìm hiểu nguyện vọng của nhân dân địa phương.
Những đảm bảo cho hoạt động của đại biểu Quốc hội
Để đảm bảo cho hoạt động của ĐBQH, Hiến pháp 1992, luật tổ chức QH và quy chế hoạt động của ĐBQH quy định: ĐBQH có quyền bất khả xâm phạm. Nếu không có sự đồng ý của QH trong thời gian QH họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ QH thì không được bắt giam truy tố và khám xét nơi ở nơi làm việc của ĐBQH.
ĐBQH không thể bị cơ quan, đơn vị đại biểu nào làm việc cách chức, buộc thôi việc nếu không được Uỷ ban thường vụ QH đồng ý. Theo điều 59 luật tổ chức QH, điều 44 và 45 quy chế hoạt động thì ĐBQH được tạo điều kiện thuận lợi để làm nhiệm vụ, được bố trí thời gian và địa điểm gặp gỡ tiếp xúc cử tri, được sắp xếp thời gian và phương tiện, được quyền ưu tiên mua vé tàu, xe, máy bay, được hưởng chế độ thuốc men, nằm bệnh viện theo chuẩn cán bộ trung cấp.
ĐBQH được cấp một khoản phí hàng tháng do Uỷ ban thường vụ quyết định. ĐBQH hoạt động chuyên trách được bố trí nơi làm việc và các điều kiện khác cho hoạt động của mình (theo điều 59 luật tổ chức QH).
Theo điều 43 quy chế hoạt động của ĐBQH thì đại biểu hoạt động theo chế độ không chuyên trách được dành ít nhất 1/3 thời gian làm việc để làm nhiệm vụ đại biểu. Cơ quan, tổ chức nơi ĐBQH làm việc phải tạo điều kiện để đại biểu làm nhiệm vụ.
2.2 Thực trạng hoạt động của Đại biểu Quốc hội hiện nay:
2.2.1 Đánh giá chung:
Từ khi thành lập đến nay ĐBQH là hạt nhân cốt lõi không thể thiếu trong QH của nước ta. Trong gần 65 năm xây dựng và phát triển, qua các nhiệm kì QH, các ĐBQH không ngừng cố gắng vươn lên trong mọi hoat động, hoàn thiện nâng cao năng lực, trí tuệ để xứng tầm là những người đại diện cho nhân dân. Nhìn vào thực tiễn của đất nước trong thời chiến cũng như trong thời bình, 65 năm là cả một quá trình chiến đấu, nỗ lực không ngại khó khăn gian khó của ĐBQH trong việc đưa đất nước từ trong bão lửa chiến tranh đến hòa bình, độc lập rồi không ngừng phát triển như ngày hôm nay. Điều này được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ghi nhận. Cho đến bây giờ ta có thể thấy rằng phần lớn các ĐBQH gắn bó, trung thành với nhân dân, luôn nói tiếng nói của nhân dân. Trong mỗi kì họp các đại biểu luôn cố gắng đóng góp công sức của mình bằng cách xây dựng, phát biểu ý kiến. Đa số ĐBQH có năng lực, tư cách đạo đức tốt, ý thức tự rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân và là gương sáng cho cả nước noi theo.
2.2.2 Những hạn chế:
Trong quá trình Quốc hội họp:
Tại các kì họp, ĐBQH tiến hành thảo luận ở tổ, đoàn và tại phiên họp toàn thể. Và để phục vụ cho các kỳ họp nói chung cũng như việc đóng góp ý kiến thảo luận nói riêng, các ĐBQH phải đọc và nghiên cứu dần các tài liệu được cung cấp. Tuy vậy, thực tế còn tồn tại tình trạng nhiều đại biểu không ngó ngàng gì tới tài liệu, mang cả bọc tài liệu đi họp. Các đại biểu vẫn than phiền về hàng nghìn trang tài liệu là quá nhiều nhưng do không biết cách xử lý nên vẫn thiếu thông tin để chuẩn bị cho phiên họp. Hậu quả là nhiều ĐBQH không phát biểu ý kiến một lần nào. Trong kì họp, nhiều ĐBQH đã chuẩn bị kĩ, công phu những ý kiến để tham gia thảo luận về các dự án luật. Nhiều đại biểu còn viết thành bài phát biểu song do viết thành bài, lệ thuộc vào bài viết trong khi thiếu khả năng ứng phó tức thời nên xảy ra tình trạng các ý kiến trùng lặp. Nguyên nhân của những hạn chế này là một phần do đại biểu còn thiếu hiểu biết về hoạt động xây dựng pháp luật, trình độ pháp lý chuyên ngành còn thấp. Phần nữa do đại biểu chậm sáng tạo, mắc bệnh phát biểu báo cáo. Bên cạnh đó là nguyên nhân về năng lực yếu kém, không quen với công tác của một ĐBQH và ý thức cũng như tinh thần trách nhiệm quá thấp.
Trình dự án luật, kiến nghị luật.
Điều 48 luật tổ chức QH quy định: “ĐBQH có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước QH, dự án pháp lệnh ra trước UBTVQH theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định”. Trên cơ sở kế thừa Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 cũng quy định: “Ngoài quyền trình dự án luật, ĐBQH còn có quyền kiến nghị về luật”. Tuy nhiên trong thực tiễn xây dựng pháp luật của QH nước ta trong nhiều nhiệm kì qua hầu như chưa có ĐBQH nào tự mình soạn thảo và trình dự án luật ra trước QH. Nguyên nhân của những hạn chế này là một phần do đại biểu còn thiếu hiểu biết về hoạt động xây dựng pháp luật, trình độ pháp lý chuyên ngành còn thấp.
Tình trạng này dẫn đến hậu quả nhiều dự án luật không đi sâu sát vào thực tế đời sống của nhân dân. Hoạt động xây dựng pháp luật chỉ do những người chuyên ngành luật soạn thảo vô hình chung dẫn đến tình trạng chỉ thể hiện ý chí của một số người nào đó trong xã hội. Còn ĐBQH - đại diện cho tiếng nói của nhân dân thì lại không truyền tải được nguyện vọng của nhân dân vào pháp luật. Ngoài ra một lý do, đó là trong QH, số lượng ĐBQH kiêm nhiệm nhiều, ôm đồm quá nhiều công việc dấn đến không còn thời gian tập trung cho công tác xây dựng pháp luật, vốn đòi hỏi trí tuệ và sự am tường luật pháp của các ĐBQH .
Hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội:
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH vẫn còn nhiều hạn chế.
Về phía người hỏi, suốt qúa trình họp, nhiều đại biểu không hề chất vấn, mang tư tưởng ỷ lại để lâu thành thói quen. Các đại biểu chất vấn thì nêu lên rất nhiều câu hỏi nhưng không phải tất cả đều đúng với nghĩa chất vấn. Nhiều đại biểu đôi khi còn chưa chuẩn bị kĩ, câu hỏi chất vấn đôi khi còn dài dòng, không rõ trọng tâm câu hỏi, đưa ra những câu hỏi chất vấn chỉ là những câu hỏi thường yêu cầu cung cấp thông tin về một vấn đề nào đó. Các câu hỏi thường chỉ xuất phát từ lĩnh vực thuộc chuyên ngành của các đại biểu mà chưa tập trung vào những vấn đề quan trọng được dư luận quan tâm. Chất lượng câu hỏi còn hạn chế, chưa xứng tầm. Chất vấn để truy kích, làm rõ trách nhiệm, theo đuổi đến cùng còn hạn chế. Về phía người trả lời chất vấn, thì thiên về báo cáo thành tích, diễn giải dài dòng. Nhiều khi bộ trưởng trả lời chất vấn còn đổ lỗi cho cấp dưới mà chưa nhận trách nhiệm về mình.
Nguyên nhân: trước hết, nhìn lại con đường hình thành ĐBQH là dân cử nhưng mang tính áp đặt. Nhân dân chỉ lựa chọn những người “không hề quen biết” chứ đừng nói là những đại biểu gắn bó với nhân dân được nhân dân tin yêu. Vì vậy rất khó lựa chọn những ĐBQH ưu tú, dám nói lên tiếng nói của dân. Thứ hai, nhiều ĐBQH trình độ nhận thức còn yếu, chưa xứng đáng với chức vụ quyền hạn. Thứ ba, các ĐBQH chưa thực sự đi sâu sát vào đời sống nhân dân, phần lớn các ĐBQH thích đứng trên chỉ đạo, “nói mà không làm” hoặc “nói một đường làm một nẻo”. Thứ tư, một số ĐBQH “biết mà không nói” vì sự cả nể sợ cấp trên bất tín nhiệm hoặc cố tình che giấu bao biện lẫn nhau.
Công tác tiếp xúc cử tri, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Qua các kỳ họp, rõ ràng các đại biểu đã có ý thức đề cao hoạt động này và hiệu quả đã được nâng lên rõ rệt. Song trong thực tế còn nhiều điểm hạn chế. Với công tác TXCT, thời gian dành cho việc này rất eo hẹp do nhiều đại biểu hoạt động kiêm nhiệm nên rất khó bố trí. Trong quá trình TXCT, nhiều ĐBQH còn bộ lộ yếu kém trong việc báo cáo trước cử tri. Cách báo cáo dàn trải, lướt nhanh, còn nặng tính hình thức. Ý kiến giải quyết các yếu cầu kiến nghị của cử tri từ ĐBQH thường không thỏa đáng, gây bức xúc với cử tri. Năng lực yếu kém cũng là một nguyên nhân cho vấn đề này. Về phần giải quyết các khiếu nại của công dân cũng đã được quan tâm nhiều hơn. Nhiều năm qua, các lá đơn thư gửi tới ĐBQH ngày càng tăng. Tuy thế lại nảy ra tình trạng đơn thư khiếu nại còn tồn đọng không được giải quyết trong khi đó các ĐBQH chỉ thực hiện chuyển đơn thư khiếu nại lên các cơ quan có thẩm quyền giải quyết mà chưa tích cực trong công tác đôn đốc, giám sát việc giải quyết của các cơ quan này. Điều này xuất phát từ chế độ hoạt động kiêm nhiệm, ý thức trách nhiệm kém và tâm lý e dè, cà nể cấp trên của nhiều ĐBQH. Căn bệnh hách dịch, cửa quyền của nhiều đại biểu vẫn còn tồn tại.
3. Một số kiến nghị, giải pháp.
Rõ ràng, hoạt động của ĐBQH là một trong những hình thức quyết định hiệu quả hoạt động của QH. Để hình thức này đạt được hiệu quả cao nhất, vấn đề đặt ra hiện nay là phải có những giải pháp khắc phục được những nhược điểm còn tồn tại trong hoạt động của ĐBQH. 3.1 Về nhiệm vụ và quyền hạn của đại biểu Quốc hội:
Đối với các kỳ họp của Quốc hội:
Để tránh tình trạng các ĐBQH không phát biểu ý kiến hoặc việc kỳ họp diễn ra mà vẫn thiếu thông tin, có quá nhiều tài liệu mà không đọc hết được. Vì lẽ đó, có thế thấy quy định gửi tài liệu cho đại biểu chậm nhất trước kỳ họp 20 ngày (điều 72 luật tổ chức QH) là không hợp lý, nhất là những tài liệu về các dự án lớn. Giải pháp đề ra là nên tiến hành phát là làm nhiều đợt trong khoảng giữa 2 kỳ họp để đại biểu có thể thu thập và chuẩn bị tốt nhất những thông tin cần có cho cuộc họp. Chỉ khi hoạt động của đại biểu tại các kỳ họp của QH đạt hiệu quả thì cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân mới phát huy được vai trò quan trọng của mình.
Trong hoạt động trình dự án luật, nêu kiến nghị luật.
Thực tế đáng buồn ở các kỳ họp QH hiện nay là hầu như các ĐBQH không nêu bất kì một sáng kiến luật hay một kiến nghị luật nào trong các kỳ họp QH. Để khắc phục tình trạng, một số giải pháp xin được đề cập đến ở đây đó là:
ĐBQH phải thường xuyên tham dự các buổi đóng góp ý kiến cho dự thảo văn bản pháp luật của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể hay quần chúng nhân dân.
Nên học tập theo cơ chế xây dựng một đội ngũ chuyên gia “vận động hành lang” hỗ trợ các ĐBQH trong quá trình lập pháp. Theo đó, đội ngũ này được pháp luật cho phép có những ảnh hưởng đến các ĐBQH thông qua hoạt động cung cấp thông tin cho đại biểu về các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong quá trình lập pháp.
Điều này là cần thiết bởi lẽ, với thực trạng hiện nay, năng lực lập pháp cửa nhiều ĐBQH ở nước ta còn yếu kém do không có đủ chuyên môn trên các lĩnh vực khác nhau nên khó có thể đưa ra được những sáng kiến luật đúng đắn. Thêm vào đó, trong bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế như hiện tại, nhiều vấn đề chính trị - xã hội theo đó nảy sinh cho nên hoạt động lập pháp là vô cùng quan trọng.
Trong hoạt động chất vấn:
Chất vấn là một hoạt động quan trọng để thực hiện quyền giám sát của ĐBQH nói riêng và QH nói chung. Để hoạt động này thực sự phát huy được hiệu quả thì nhất thiết cần khắc phục được những vấn đề còn tồn tại. Giải pháp cần thiết hiện nay là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn:
Hiện tại trong pháp luật chưa có một định nghĩa cụ thể về chất vấn và thực tế cho thấy những câu chất vấn thường không đúng bàn chất là chất vấn. Vì thế, pháp luật cần đưa ra những quy định cụ thể xác định tiêu chí nào là một lời chất vấn hay như thế nào là một câu trả lời chất vấn đạt yêu cầu. Đồng thời, cần thiết phải quy định trách nhiệm của cả người chất vấn và người trả lời. Từ đó mới có thể hạn chế được việc các ĐBQH nhầm lẫn giữa hỏi và chất vấn cũng như có căn cứ để xác định trách nhiệm của ĐBQH chất vấn, đối tượng trả lời chất vấn cũng như đảm bảo thời gian và tính hiệu quả, chất lượng của hoạt động chất vấn.
Luật hóa hay xây dựng các quy chế của QH về trình tự, thủ tục trong hoạt động chất vấn. Cụ thể là: quy định chi tiết thủ tục xác định thời gian hay các bước thực hiện chất vấn, từ khâu chuẩn bị lời chất vấn, trả lời đến kết luận và đánh giá việc trả lời chất vấn; xác định người phải trả lời chất vấn hay những vấn đề trọng tâm cho việc chất vấn trong từng kỳ họp. Thêm nữa, thủ tục hậu chất vấn ghi nhận ý kiến các đại biểu về câu trả lời chất vấn cũng cần được quan tâm. Nên học tập cơ chế tiến hành hoạt động