Trong tất cả các mục tiêu thiên niên kỉ ( MDG) Việt Nam đạt được những
thành tựu đặc biệt trong mục tiêu 1, giảm nghèo. Việt Nam đã giảm được 75% tỉ lệ
nghèo, từ 58,1% năm 1990 xuống còn 14,5% năm 2008. Tỉ lệ thiếu đói giảm 2/3,
từ 24,9% năm 1993 xuống còn 6,9 năm 2008.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD, Việt Nam trở
thành nước có thu nhập thấp, tuy nhiên vẫn được đánh giá là một nước nghèo.
Theo kết quả của Tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo trong cả nước theo
chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công
bố ngày 30/5/2011, cả nước có 3.055.566 hộ nghèo và 1.612.381 hộ cận nghèo.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 11209 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam
1
MỤC LỤC
1. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam:.................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Việt Nam là một nước nghèo ...................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Đánh giá về mức độ nghèo đói: .................. Error! Bookmark not defined.
2. Một số đặc điểm của vùng nghèo đói. .............. Error! Bookmark not defined.
2.1. Các vùng khó khăn. ...................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Nghèo đói vùng nông thôn và đô thị .......... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Nghèo đói ở nông thôn. ............................ Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Nghèo đói ở đô thị..................................... Error! Bookmark not defined.
3. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo:Error! Bookmark not
defined.
3.1. Hạn chế về nguồn lực:.................................. Error! Bookmark not defined.
3.2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiết và không ổn địnhError! Bookmark
not defined.
3.3. Các yếu tố về nhân khẩu học....................... Error! Bookmark not defined.
3.4. Các nguy cơ rủi ro và thiên tai khác:.......... Error! Bookmark not defined.
2
1. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam:
1.1. Việt Nam là một nước nghèo.
Trong tất cả các mục tiêu thiên niên kỉ ( MDG) Việt Nam đạt được những
thành tựu đặc biệt trong mục tiêu 1, giảm nghèo. Việt Nam đã giảm được 75% tỉ lệ
nghèo, từ 58,1% năm 1990 xuống còn 14,5% năm 2008. Tỉ lệ thiếu đói giảm 2/3,
từ 24,9% năm 1993 xuống còn 6,9 năm 2008.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD, Việt Nam trở
thành nước có thu nhập thấp, tuy nhiên vẫn được đánh giá là một nước nghèo.
Theo kết quả của Tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo trong cả nước theo
chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công
bố ngày 30/5/2011, cả nước có 3.055.566 hộ nghèo và 1.612.381 hộ cận nghèo.
3
Biều đồ 1: Tỷ lệ hộ nghèo qua các năm ( đv %).
20
18.1
16 14.8
12.1
12 11
9.45
8
4
0
2006 2007 2008 2009 2010
Tỷ lệ hộ nghèo từ 18,1% (năm 2006) xuống còn 14,75% (năm 2007) và
12,1% (năm 2008) , 11% (năm 2009), và 9,45% (năm 2010).
Trong tổng số 63 tỉnh, thành phố, có 5 tỉnh, thành phố tỷ lệ hộ nghèo dưới
5% là TP.HCM (0,01%); Bình Dương (0,05%); Đồng Nai (1,45%); Bà Rịa - Vũng
Tàu (4,35%); Hà Nội (4,97%). Đây cũng là những địa phương đã ban hành chuẩn
nghèo riêng, cao hơn chuẩn nghèo quốc gia1. Điện Biên là địa phương có tỷ lệ
nghèo lớn nhất cả nước (trên 50%). Ngoài ra, còn có 81 huyện thuộc 25 tỉnh có tỷ
lệ hộ nghèo trên 50%, trong đó bao gồm 54 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của
Chính phủ.
1 Chuẩn nghèo riêng của Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh
Chuẩn Vùng Hà Nội TP. Hồ Chí Minh
Hộ nghèo Nông thôn <550.000 < 830.000
Thành thị < 750.000 < 1.000.000
Cận nghèo Nông thôn 551.000 – 750.000
Thành thị 751.000 – 1.000.000
4
Kết quả công bố cũng cho thấy có 14 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo từ 5% đến dưới
10%; 18 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 10% đến dưới 20%; 16 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 20%
đến dưới 30%; 6 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 30% đến dưới 40%; 3 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo
từ trên 40% đến dưới 50%, là: Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang.
Xét về tỷ trọng số người nghèo ở từng vùng so với tổng số hộ nghèo trên cả
nước, với 77.802 hộ nghèo, chiếm tỷ trọng 2,55%, khu vực Đông Nam bộ là khu
vực có số lượng hộ nghèo thấp nhất. Khu vực Đông Bắc có số lượng hộ nghèo lớn
nhất cả nước với 581.560 hộ, chiếm 19,03%.
Bảng 1: Tỷ lệ hộ nghèo chia theo khu vực ( đv % )
Năm Thành thị Nông thôn
Năm 2002 10,6 26,9
Năm 2004 8,6 21,2
Năm 2010 6,9 17,42
Có thể thấy rằng tỷ lệ hộ nghèo giữa thành thị và nông thôn chênh lệch khá
nhiều cho thấy hiện tượng phân hóa giàu nghèo
Hệ số Gini (mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư hay mức độ chênh lệch giàu nghèo) năm 2002 (0,420), 2006 (0,424) ,
2010 (0,433) cho thấy ko mức độ chênh lệch giàu nghèo không có nhiều khác biệt
qua các năm.
Xét về tỷ lệ nghèo theo vùng ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2: Tỷ lệ nghèo theo vùng ( đv % )
Vùng 2004 2006 2008 2010
Tây Bắc 46,1 39,4 35,9 39,4
2 Tổng cục Thống kê, tính theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011-2015
5
Đông Bắc 23,2 22,2 20,1 24,2
Đồng bằng sông
12,9 10,1 8,7 8,4
Hồng
Bắc Trung Bộ 29,4 26,6 23,1 24
Duyên hải Nam
21,3 17,2 14,7 16,9
Trung Bộ
Tây Nguyên 29,2 24 21 22,2
Đông Nam Bộ 6,1 4,6 3,7 3,4
Đồng bằng sông
15,3 13 11,4 12,6
Cửu Long
(Nguồn: Khảo sát mức sống hộ dân cư năm 2010 của Tổng cục thống kê)
Tỷ lệ nghèo được phân chia như sau:
- Tỷ lệ nghèo cao ở khu vực Đông Bắc và Tây Bắc dọc biên giới Trung
Quốc, duyên hải miền trung, và Tây Nguyên.
- Tỷ lệ nghèo trung bình ở hai vùng đồng bằng châu thổ chính của Việt Nam
là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long
- Tỷ lệ đói nghèo thấp nhất ở các thành phố lớn, đặc biệt ở Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh và khu vực miền Đông Nam bộ
Tỷ lệ nghèo cao ở những nơi có địa hình đồi núi hiểm trở, đất đai kém màu
mỡ và cách xa thành phố nà ngược lại những vùng miền có điều kiện tự nhiên,
kinh tế và xã hội thuận lợi tỷ lệ nghèo thấp hơn. Ở Việt Nam, những người nghèo
6
nhất sống tại các vùng núi, nơi các xã nghèo chiếm tỉ lệ lớn trên toàn quốc. Trong
khi đó, một số lượng lớn người nghèo lại sống bên cạnh những người khá giả tại
hai vùng đồng bằng và ven biển.
Chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể tuy nhiên nó không bền vững, bởi tỷ lệ tái nghèo cao, số hộ nghèo giảm
song không chắc chắn số người nghèo trong xã hội cũng giảm mà thậm chí còn
tăng do tác động của lạm phát3
Chương trình 135: " Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa" - chương trình
Xoá đói giảm nghèo đặc biệt của Chính phủ - do ủy ban Dân tộc và Miền núi là cơ
quan thường trực, theo các Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm
1998 và số 138/2000/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính
phủ, song thử nhìn nhận tỷ lệ hộ nghèo qua các năm.
Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số
Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số (DTTS) tăng liên tục trong giai đoạn 1993
và 2008 và còn hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước.
Biều đồ 2: Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số
55
60 47
45 39
29
30 18
15
0
3 8 4 6 8
99 99 00 00 00
1 1 2 2 2
3
7
Dự kiến năm nay 2010, tỷ lệ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn sẽ giảm
xuống còn gần 30%.4 Thu nhập bình quân của đồng bào DTTS và miền núi chỉ
bằng khoảng 1/3 so với mức thu nhập trung bình của cả nước. Theo ước tính khi
“chuẩn nghèo 400.000/người/tháng” được áp dụng từ năm 2011, tỷ lệ nghèo ở các
xã, thôn bản đặc biệt khó khăn sẽ tăng lên 60%, thậm chí một số nơi còn lên tới
70-75%.
Trong khi các vùng đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách cải
cách và tăng trưởng kinh tế, thì tình trạng nghèo vẫn tồn tại dai dẳng ở nhiều vùng
nông thôn của Việt Nam và ở mức độ rất cao ở các vùng dân tộc thiểu số
Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm
lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 -
1998, giảm xuống còn khoảng 1 - 0,3 giai đoạn 1998 - 2004. Bình quân trước đó
mỗi năm giảm 34 vạn hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2% một năm, riêng
các huyện, xã nghèo giảm 4% một năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn.
Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam, vào
năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước,
chỉ số phát triển giới (tiếng Anh: Gender Development Index-GDI) xếp 87 trên
144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng Anh: Human Poverty Index-HPI) xếp
hạng 41 trên 95 nước. Để đo lường sự phát triển của một quốc gia không chỉ phụ
thuộc vào thu nhập của quốc gia đó, tình trạng nghèo của một quốc gia còn được
nhìn nhận ở góc độ nghèo về sức khỏe, tri thức của con người ở quốc gia đó.
1.2. Đánh giá về mức độ nghèo đói:
Chuẩn nghèo là công cụ để đo tỷ lệ nghèo trong xã hội – một chỉ số quan
trọng phản ánh mức sống của xã hội về mặt thu nhập cá nhân. Tỷ lệ nghèo là tỷ lệ
4
8
số hộ có thu nhập dưới hoặc bằng chuẩn nghèo đối với toàn bộ số hộ trong quốc
gia.
Các cải cách kinh tế-xã hội như phúc lợi xã hội và bảo hiểm thất nghiệp
được tiến hành dựa trên những phản ánh của các chỉ số như chuẩn nghèo và tỷ lệ
nghèo.
Một loạt các chỉ tiêu về nghèo đói và phát triển xã hội hiện đang được sử
dụng ở Việt Nam. Bộ Lao động Thương binh Xã hội dung phương pháp dựa trên
thu nhập của hộ. Các hộ được xếp vào dạng nghèo hoặc cận nghèo nếu thu nhập
đầu người của họ dưới mức được xác định, mức này cũng khác nhau tuỳ vào khu
vực thạnh thị hay nông thôn. Ban hành chuẩn nghèo, chuẩn cận nghèo áp dụng cho
các giai đoạn khác nhau5 như sau:
Giai đoạn 1993-1995:
- Hộ đói ở nông thôn dưới 08kg gạo/người/tháng, ở đô thị là 13kg gạo.
- Hộ nghèo ở nông thôn dưới 15kg gạo/người/tháng, ở đô thị là 20kg.
Giai đoạn 1996-2000:
- Hộ đói mọi vùng là dưới 13kg gạo /người/ tháng, quy ra tiền là
45.000đồng; hộ nghèo ở vùng núi, hải đảo dưới 15kg gạo, ứng với 55.000 đồng;
dưới 20kg ứng với 70.000 đồng ở nông thôn đồng bằng, dưới 25kg gạo, ứng với
90.000đồng ở đô thị.
Giai đoạn 2000-2005:
- Nông thôn miền núi là dưới 80.000đồng/ người/ tháng; nông thôn đồng
bằng và trung du dưới 100.000đồng/ người/ tháng.
- Đô thị dưới 150.000đồng/ người/ tháng.
Giai đoạn 2006- 2010:
5 Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn
2011-2015 của Thủ tướng Chính Phủ ban hành ngày 30/1/2011.
9
- Khu vực thành thị là 250.000đồng/ người/ tháng.
- Nông thôn là 230.000đồng/ người/ tháng, cả nước có 17,1% dân số nghèo.
Tháng 9/2011, Thủ tướng nước ta vừa ban hành Quyết định số 09/ 2011/
QĐ-TTg về chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015.
Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/ 1/ 2011.
Theo quyết định, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000đồng/ tháng/ người (từ 4,8 triệu đồng/ người/ năm) trở xuống.
- Hộ nghèo ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/ người/
tháng (từ 6 triệu đồng/ người/ năm) trở xuống.
-Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000đồng đến 520.000đồng/ người / tháng.
-Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000đồng
đến 650.000đồng/ người/ tháng.
Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện chính sách an
sinh xã hội và chính sách kinh tế- xã hội khác.
"Chuẩn" nghèo được quy định của Chính phủ VN dựa trên một số quy tắc
về chuẩn nghèo của Liên Hợp Quốc (UN): Giai đoạn 2000-2006, hộ gia đình có
thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi, hải đảo từ 80.000
ĐVN/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, nông thôn đồng bằng là 100.000
ĐVN/người/tháng, thành thị là 150.000 ĐVN/người/tháng.
Quyết định của Thủ tướng chính phủ Số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005
"Về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010": Khu vực
nông thôn, hộ gia đình có thu nhập bình quân từ 200.000 ĐVN/người/tháng
(2.400.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Khu vực thành thị: từ
260.000 ĐVN/người/ tháng (dưới 3.120.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.
10
Trong giai đoạn 2011-2015: chuẩn nghèo cũng được đưa ra:
- Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân 750.000đồng/
người/ tháng trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực nông thôn: NHững hộ có mức thu nhập bình quân 550.000đồng/
người/ ngày trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 751.000đồng
đến 1.000.000đồng/người/ngày là hộ cận nghèo.
- Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ
551.000đồng đến 750.000đồng/người/ngày là hộ cận nghèo.
Tổng cục thống kê thì dựa vào cả bình quân thu nhập và chi tiêu theo đầu
người để tính tỷ lệ nghèo. Ngưỡng nghèo được xác định dựa trên chi phí cho một
giỏ tiêu dung gồm lương thực và phi lương thực, trong đó chi tiêu cho lương thực
phải đảm bảo đủ 2100 calo/người/ngày. Còn tại Trung tâm Khoa học, Xã hội và
Nhân văn, người ta tính chỉ số phát triển của con người (HDI) ở cấp tỉnh ở ba khía
cạnh: tuổi thọ, tri thức và mức sống thoả đáng để đo thành tựu của đất nước.
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo đã
được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được đánh giá theo các cách tiếp cận
khác nhau:
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu á Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về
định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa
phương.
11
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung
bình của cộng đồng.
+ Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực
và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là
trong lĩnh vực kinh tế.
+ Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một
vùng.- Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự nghèo
khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo.
Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người như
biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được nuôi
dưỡng tạm đủ.
+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi
tiêu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác
định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí lương
thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này
hoặc nước khác.
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm
nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng:Ở Việt Nam thì tách riêng đói và
nghèo thành 2 khái niệm riêng biệt.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
12
- Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó
là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn
cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà
ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương
đương 45.000VND).
Qua các đánh giá trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói: “Đói
nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về cuộc sống
như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết
định của cộng đồng”Qua các cách tiếp cận trên đã giúp chúng ta nâng cao sự hiểu
về các nguyên nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức
hành động đúng đắn để tấn công đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống
của người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
2. Một số đặc điểm của vùng nghèo đói.
2.1. Các vùng khó khăn.
2.1.1. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ
lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất
mong manh.
Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do
vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống
ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn
lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp
bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng.
Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh
với ngưỡng nghèo đói, do vậy khi có những dao động về thu nhập cũng có thể
13
khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp
cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức
sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Theo báo cáo của Tổng cục
thống kê, chênh lệch giữa 20% nhóm thu nhập cao nhất với 20% nhóm thu nhập
thấp nhất đã tăng từ 7,0 lần năm 1995 lên 8,9 lần năm 2009. Ở thành thị và nông
thôn, khoảng cách này lần lượt là 8,2 lần lên 8,3 lần và từ 6,5 lần đến 6,9 lần trong
cùng giai đoạn. Trừ Tây Nguyên, mọi khu vực kinh tế khác đều có mức chênh lệch
giàu nghèo gia tăng. Điều này cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong
mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức
cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so với
nhóm người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông
thôn còn rất cao.
Những tỉnh nghèo nhất hiện nay cũng là tỉnh xếp thứ hạng thấp trong cả
nước về chỉ số phát triển con người và phát triển giới.
2.1.2. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất
nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc
ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết
(bão, lụt, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân
càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng
nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện
cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái
đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn.
2.1.3. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
14
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới
64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây
Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó
khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn
nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
và thiên tai xảy ra thường xuyên.
Bảng 4: Tỷ lệ nghèo phân theo vùng năm 2009 ( đv % )6
Vùng Tỉ lệ nghèo năm 2009
Đồng bằng sông Hồng 8.3
Trung du và miền núi phía Bắc 29.4
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 20.4
Tây Nguyên 22.2
Đông Nam Bộ 2.3
Đồng bằng sông Cửu Long 12.6
2.1.4. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc thiểu số ít
người
Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng cuộc
sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù
dẫn số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư song lại chiếm
khoảng 29% trong tổng số người nghèo.
Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị cô
lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch
vụ xã hội cơ bản.
6
Tổng cục thống kê, điều tra dân số năm 2009
15
Tỷ lệ nghèo trong số các dân tộc thiểu số tỏ ra đặc biệt cao khi tính đến cả
những chỉ tiêu phúc lợi khác ngoài mức chi tiêu đâu người ho