Trong thời đại ngày nay , muốn đạt được thành công trong công việc nhất thiết phải giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đây là mối quan hệ mang tính bản chất quyết định. Nghiên cứu mối quan hệ này chúng ta cần xem xét chúng giữ vai trò gì trong xã hội, tác đọng tới mỗi doanh nghiệp , mỗi cá nhân như thế nào đồng thời cũng phải định hướng rõ những giải pháp trong tương lai.
Trong khuôn khổ có hạn, bài viết dưới đây chỉ tập trung nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX trong vấn đề tiền thưởng ở một số doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.Nghiên cứu mối quan hệ này chúng ta sẽ thấy rõ được sự cần thiết trong việc điều chỉnh và nâng cao tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên ở Việt Nam hiện nay.Kết cấu bài gồm ba phần:
-Lí luận chung về LLSX và QHSX.
-Thực trạng tiền lương và tiền thưởng của một số doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay
-Giải pháp hoàn thiện và điều hoà mối quan hệ giữa QHSX và LLSX
28 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, điều hòa mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất vào hoạt động kinh doanh của một số doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
*************
Trong thời đại ngày nay , muốn đạt được thành công trong công việc nhất thiết phải giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đây là mối quan hệ mang tính bản chất quyết định. Nghiên cứu mối quan hệ này chúng ta cần xem xét chúng giữ vai trò gì trong xã hội, tác đọng tới mỗi doanh nghiệp , mỗi cá nhân như thế nào đồng thời cũng phải định hướng rõ những giải pháp trong tương lai.
Trong khuôn khổ có hạn, bài viết dưới đây chỉ tập trung nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX trong vấn đề tiền thưởng ở một số doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.Nghiên cứu mối quan hệ này chúng ta sẽ thấy rõ được sự cần thiết trong việc điều chỉnh và nâng cao tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên ở Việt Nam hiện nay.Kết cấu bài gồm ba phần:
-Lí luận chung về LLSX và QHSX.
-Thực trạng tiền lương và tiền thưởng của một số doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay
-Giải pháp hoàn thiện và điều hoà mối quan hệ giữa QHSX và LLSX
Do giới hạn bởi kiến thức và khả năng nhận thức nên bài viết này không thể đưa ra cái nhìn toàn diện và sâu sắc nhất về vấn đề này. Vì vậy chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi nhưng sai sót và hạn chế, rất mong sự đóng góp của cô giáo, thầy giáo.Em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo bộ môn đã giúp em hoàn thành bài viết này.
NỘI DUNG
*********
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Từ khi con người xuất hiện trên hành tinh đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là:nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội.Tư duy của con người không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian tư duy của con người ngày càng phát triển hoàn thiện hơn.Từ đó kéo theo sự phát triển của LLSX cũng như cơ sở sản xuất. Không ít các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đổ bỏ công sức cho cho các vấn đề này cụ thể là nhận thức con người, trong đó có trường phái triết học.Với ba trường phái phát triển trong lịch sử của mình là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, trường phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất thực chất của triết học là sự thống nhất biện chứng giữa LLSX và QHSX như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội.Tác động qua lại biện chứng LLSX với QHSXđược Mác và Ăngghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa LLSX và QHSX.Dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì nhận thức của hai ông hay quy luật của hai ông vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Nhưng sản xuất vật chất là một phạm trù vĩnh viễn và là một tất yếu khách quan vì không bao giờ loài người lại không cần đến sản xuất vật chất.Xã hội ngày càng phát triển bao nhiêu thì nhu cầu sản xuất vạt chất và tinh thần càng phát triển bấy nhiêu. Sản xuất vật chất trong mỗi giai đoạn lịch sử được biểu hiện ở một phương thức sản xuất nhất định. Xã hội loìa người tồn tại và phát triển luôn dựa vào phương thức sản xuất, nhờ phương thức sản xuất mà con người sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người tạo ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội. Tính chất và kết cấu của xã hội như thế nào không phải do nguyện vọng và ý muốn của con người, cũng không phải do hình thức nhà nước và pháp luật quyết định, mà do phương thức sản xuất bao giờ cũng có hai mặt là LLSX và QHSX.
LLSX là toàn bộ những tư liệu xản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là tư lao động và những người lao động với kinh nghiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó đêr tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Từ thực trạng đó lí luận về LLSX của xã hội được C.Mác nêu lên và phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "Tư bản" và chính trong bộ "Tư bản" Mác đã trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của mình về các yếu tố cấu thành LLSX của xã hội trong đó bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất.Đối với Mác cùng với tư liệu lao động đối với lao động cũng thuộc về tư liệu sản xuất, còn trong tư liệu lao động tức là tất cả những yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động như công cụ lao động, nhà xưởng, phương tiện lao động, cơ sở vật chất kho tàng...thì vai trò quan trọng hơn cả thuộc về công cụ lao động. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ sản xuất phải dựa vao công cụ lao động.Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong LLSX chính là con người cho dù những tư liệu lao động được tạo ra từ trước có sức mạnh và đối tượng lao động có phong phú thế nào thì con người vẫn là quyết định.
Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của LLSX trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt sinh học, sự xuất hiện công cụ lao đọng đánh dấu một bước ngoặt khác trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lượm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần cải tạo tự nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp công nghệ lac hậu sang cơ khí hoá sản xuất. Sự phát triển LLSX trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lượng thuần tuý với các công cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những công cụ hoàn toàn mới sử dụng cơ bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc nặng nhọc cho máy móc có điều kiện để phát huy năng lực khác của mình.
QHSX là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình sản xuất con người có những quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy viêc phẳi thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật rồi. Nhìn tổng thể QHSX gồm ba mặt:
-Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
-Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tưc là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người quản lý và công nhân.
-Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhauvà cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lí và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đảy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động.Đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong cải tạo và củng cố QHSX phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối .Không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lí luận , không nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng QHSX. Nó còn là đặc trưng để phân biệt chẳng những các QHSX khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như Mác đã nói.
-Thực tế cho thấy rõ bất cứ một cuôc cách mang xă hội nào đều mang mục đích kinh tế là đảm bảo cho LLSX tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế-xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kì quá độ từ hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
-Và xét riêng trong phạm vi một QHSX nhất định thì tính chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lí và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội nhất định QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những không đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của của chế độ kinh tế-xã hội mới.
Nếu trong quá khứ, đã không có một cuộc chuyển biến nào từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác hoàn toàn là một cuộc tiến hoá êm ả, thì thời kì quá độ từ từ hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc trước tư bản chủ nghĩa sang hình thái cộng sản chủ nghĩa(CSCN) trong thời đại ngày nay càng không thể là một quá tình êm ả. Chủ nghĩa Mác-Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế-xã hội nao đã tồn tại kể từ trước tới nay là chuẩn nhất. Trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội cùng với một QHSX thống trị, điển hình còn tồn tại những QHSX phụ thuộc, lỗi thời như tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một QHSX tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các hình thức trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về LLSX không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các ngành và các vùng khác nhau trong cùng một nước. Việc chuyển từ QHSX lỗi thời lên cao hơn như C.Mác nhận xét:"Không bao giờ xuất hiện trươc khi những điều kiện vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi..."phải có một thời kì lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tậo ra điều kiện vật chất trên.
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế-chính trị năm 1895 C.Mác viết: ''Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc vào họ, tức những QHSX. Những quy luật này phù hợp với mộtt trình độ phát triển nhất định của LLSX. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của LLSX vật chất của họ..." Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX
Cho đến nay hầu như qui luật này đã được khẳng định cũng như các nhà triết học Mac xit nghiên cứu.Khái niệm "phù hợp" được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là không tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là dạng những QHSX và dạng những LLSX từ đó hình thành những moói liên hệ chủ yếu cơ bản là mối quan hệ giữa QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Nhưng mối liên hệ giữa hai yếu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp?Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định phù hợp với các ý nghĩa sau:
-Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
-Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối.Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển. Ta biết rằng trong phép biện chứng duy vật cái tương đối không thể tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn nhất định. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chhừng nào người ta thưà nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động, Cũng vì thế chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của LLSX và QHSX chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật về mối quan giữa LLSX và QHSX là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động , sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đầy đủ khẳ năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của quy luật kinh tế.
Tất cả chúng ta đều biết, QHSX và LLSX là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy QHSX lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là một hiện tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp quy luật khách quan.Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của QHSX với sự phát triển của LLSX. Sự lạm dụng này biểu hiện ở "Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra QHSX mới để mở đường cho sự phát triển của LLSX".
QHSX chỉ có mở đường cho LLSX phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX:
-LLSX quyết định sự hinh thành và biến đổi của QHSX:LLSX là cái biến đổi trước và trong quá trình sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Lực lượng lao động quy định sự hình thành và biến đổi QHSX khi QHSX không thích ứng với trình độ và tính chất của LLSX thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại LLSX và ngược lại.
-Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX: QHSX khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với LLSX và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với LLSX. Thường lạc hậu so với LLSX và và nếu QHSX phù hợp với trình độ và tính chất của LLSX thì nó thúc đẩy LLSX phát triển .Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại LLSX vì nó quy định mục đích của sản xuất quy định hệ thống tổ chức quản lí sản xuất và quản lí xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng . Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ lao động , áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật vận động, phát triển của sản xuất qua sự thay đổi kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua tất cả những phương thức sản xuất mà loài người biết đến. Thực tế lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất mới cao hơn. Đó là sự biểu hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi phối xu hướng vận động phát triển của tất cả các nước, còn hình thức bước đi cụ thể lại phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước .
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật chung của xã hội loài người. Quy luật xã hội thì thông qua hoạt động có ý thức con người hoạt động xã hội thông qua xã hội có ý thức. Còn quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là cái quyết định chính còn QHSX là cái phụ thuộc khách quan và QHSX phát triển hay không phát triển nhưng nó phải biến đổi để thích ứng với sản xuất
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN
Ở Việt Nam hiện nay, khi LLSX đang phát triển một cách mạnh mẽ do cơ chế thị trường, do trình độ xã hội hoá ngày càng cao và do sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhà nước ta đã có những chính sách thể hiện sự quan tâm và có những biện pháp để tận dụng và phát huy những ưu thế của vấn đề này. Một trong số đó chính là vấn đề tiền thưởng đã được nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước quan tâm phát triển. Trong phiên họp quốc hội khoá IX, đã đưa ra thêm nhiều cải cách trong bộ luật lao động, trong đó cũng đã đề cập đến đến việc có những chính sách ưu đãi và phúc lợi cho người lao động nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của con người.Nhưng vấn đề tiền lươmg này cũng gồm có hai mặt: nếu sử dụng chính xác và hiệu quả sẽ kích thích khả năng lao đông và làm việc của người lao động, còn nếu không phù hợp và đúng mục đích sẽ gây nhiều tiêu cực và lãng phí.
1. Mặt tích cực:
a)Sử dụng chính sách về tiền lương.
*Tiền lương là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao động, giúp cho họ và gia đình trang trải các chi tiêu, sinh hoạt, dịch vụ cần thiết
Việc áp dụng mức tiền thưởng phù hợp là một vấn đề rất quan trọng trong việc phát triển nguồn lực con người và thành, bại công việc.Hiện nay trên thế giới việc sử dụng thang lương, bảng lương là vấn đề phổ biến nhất. Việc sử dụng thang lương và bảng lương có hiệu quả kích thích người lao động làm việc chăm chỉ, cần cù sáng tạo hơn trong công việc nhằm đạt một mức lương cao hơn.Ở nước ta, hệ thống tiền lương bao gồm hai chế độ tiền lương: chế độ tiền lương cấp bậc và chế độ tiền lương chức vụ.
+Chế độ tiền lương cấp bậc được thiết kế để trả công cho công nhân sản xuất căn cứ vào chất lượng lao động và điều kiện lao động khi họ thực một công việc nhất định. Chế độ tiền lương này kích thích người lao động không ngừng lao động tích luỹ kinh nghiệm, không ngừng học tập, học hỏi để có trình độ cao hơn .
+Chế độ tiền lương chức vụ: được thiết kế để trả lương cho người lao động trong các tổ chức và quản lý nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và các loại lao động quản lý trong các doanh nghiệp tuỳ theo chức danh viên chức và thâm niên của người lao động. Để áp dụng được các bảng lương, các tổ chức phải xây dựng các tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức và thực hiện việc tiêu chuẩn hoá cán bộ.
Nói chung việc đưa ra các chế độ tiền lương nhằm có sự công bằng, có sự kích thích lao động.Nhằm tạo mục tiêu cho người lao động phấn đấu.
Ở tổng công ty LILAMA, là tổng công ty chế tạo máy Việt Nam việc phân định mức tiền lương và tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên rất được ban lãnh đạo công ty quan tâm.Công ty có đặt ra nhiều chế độ tiền lương hợp lý như: đối với những cán bộ, công nhân viên chức có công lao đóng góp đặc biệt cho công ty lương tháng lên tới 1000USD\tháng và được tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong công tác, để có thể tiếp tục phát huy khả năng một cách tốt nhất và tiếp có những đóng góp cho công ty.
Còn công ty STC của Mỹ có trụ sở đặt tại Việt Nam: về maketting cho hàng tiêu dùng cũng có chính sách tiền thưởng rất phù hợp. Nhân viên nào thu hút được nhiều khách hàng thì có thể được thưởng tới 2000USD.
b)Chế độ khuyến khích tài chính.
*Khuyến khích tài chính là những khoản phụ thêm ngoài tiền lương để thù lao cho sự thực hiện tốt hơn mức tiêu chuẩn của người lao động.
Mục đích của các khuyến khích tài chính là tác động tới hành vi lao động, nhằm hoàn thiện sự thực hiện công việc của người lao động, nâng cao năng suất lao động của họ.
Tiền thưởng cũng chỉ là một dạng của vấn đề khuyến khích tài chính (xét theo góc độ trả công) được chi trả một lần để thù lao cho việc thực hiện công việc của người lao động. Tiền thưởng cũng có thể được chi trả đột xuất để ghi nhận nhữnh thành tích xuất sắcnhư hoàn thanh dự án công việc trước thời hạn, tiết kiệm ngân sách hoặc cho các sáng kiến cải tiến có giá trị.
Ngoài tiền thưởng còn có phần thưởng.Cũng giống như tiền thưởng, phần thưởng là thù lao một lần cho người lao động nhưng được trả dưới dạng vật chất như: một kì nghỉ phép, vé du lịch, một chiếc xe máy v.v...
Các chế độ trả công khuyến khích là những dạng khuyến khích tài chính có nhiều tác dụng tốt đối với người lao động với điều kiện chúng phải được thiết kế một cách có tính toán và được quản lý cẩn thận. Tuy nhiên, xu hướng ngày nay là các chế độ trả công theo sản phẩm ít được sử dụng vì tính liên kết cao của quá trình sản xuất hiện đại, sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và sự nhấn mạnh về chất lượng và phục vụ nhiều hơn về số lượng.
Hoa hồng là một dạng của trả công theo sản phẩm và được sử dụng với các nhân viên bán hàng. Các nhân viên bán hàng có thể được thù lao theo tỷ lệ hoa hồng cố định so với giá bán của mỗi sản phẩm họ bán được. Tuy nhiên, đa số những người bán hàng thường được thù lao kết hợp cả tiền lương cơ bản và hoa hồng.
Ưu điểm cơ bản của khuyến khích cá nhân là thúc đẩy nâng cao năng suất vì vậy cần dựa vào vấn đề này để thúc đẩy cạnh tranh tạo nền kinh tế năng động.Có nhiều phương pháp để khuyến khích tài chính, ở Việt Nam hiện nay có chủ yếu 3 phương thức chính được xem là hiệu quả và cũng đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
+Chương trình Scanlon: công ty cần thành lập một hội đồng gồm đại diện quản lí và đại diện người lao động để đánh giá tỷ lệ % tiêu chuẩn về chi phí lao động so với doanh thu. Tỷ lệ này được tính dựa trên các số liệu của công ty (5năm) và được coi là cố định trừ khi có những thay đổi lớn về sản phẩm và kỹ thuật. Mọi người lao động phân chia phần chi phí lao động tiết kiệm được do tăng năng suất của cả bộ phận. Tỷ lệ phân chia thường là 60% đến 75% cho công nhân, sau khi đã để một quỹ làm dự phòng cho những giai có năng suất kém.
Ví dụ: Ở công ty LILAMA, phòng kế