Trong xu thế mở rộng giao lưu, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, số lượng các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác ngày càng tăng. Xuất khẩu hàng hoá ra
nươc ngoài thường phức tạp hơn rất nhiều so với kinh doanh tên thị trường nội địa vì
quy mô thị trường rộng lớn khó kiểm soát, doanh nghiệp khó nắm bắt thông hiểu một
cách cặn kẽ, lại phải tuân thủ các tập quán, luật lệ của các quốc gia. Nhưng bù lại
doanh nghiệp sẽ giải quyết được tình trạng nhu cầu của thị trường nhỏ bé, sức mua thấp
hoặc cạnh tranh găy gắt. và sẽ khai thác được tiềm năng tiêu thụ của thị trường quốc tế
rộng lớn thu được ngoại tệ, tạo nguồn vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải chịu sự
cạnh tranh găy gắt từ các đối thủ trong và ngoài nước. Lúc đó, bất kì một doanh nghiệp
nào muốn tồn tại và phát triển đều phải cạnh tranh, phải tiến hành công tác phát triển
thị trường, xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu. Đó là một yêu cầu thiết yếu
trong kinh doanh bởi lẽ hoạt động xuất khẩu đạt giá trị lớn thì sẽ đảm bảo cho doanh
nghiệp đạt được các mục tiêu cơ bản trong kinh doanh như lợi nhuận, thế lực, thương
hiệu.
Trong thực tế hiện nay mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đến hoạt
động xuất khẩu nhưng họ vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện. Xác định đúng
phương hướng và giải pháp phát triển thị trường phù hợp với tình hình đã là điều
không mấy dễ dàng huy động đầy đủ và phân bổ nguồn lực để thực hiện kế hoạch lại là
điều càng khó khăn hơn. các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu thụ và phải cạnh
tranh rất nhiều hơn nữa không phù hợp nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Chính vì
vậy các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu thực sự cần thiết cho các doanh nghiệp.
68 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2082 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z
LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty
xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà nội
Lời nói đầu
Trong xu thế mở rộng giao lưu, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, số lượng các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác ngày càng tăng. Xuất khẩu hàng hoá ra
nươc ngoài thường phức tạp hơn rất nhiều so với kinh doanh tên thị trường nội địa vì
quy mô thị trường rộng lớn khó kiểm soát, doanh nghiệp khó nắm bắt thông hiểu một
cách cặn kẽ, lại phải tuân thủ các tập quán, luật lệ của các quốc gia... Nhưng bù lại
doanh nghiệp sẽ giải quyết được tình trạng nhu cầu của thị trường nhỏ bé, sức mua thấp
hoặc cạnh tranh găy gắt... và sẽ khai thác được tiềm năng tiêu thụ của thị trường quốc tế
rộng lớn thu được ngoại tệ, tạo nguồn vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải chịu sự
cạnh tranh găy gắt từ các đối thủ trong và ngoài nước. Lúc đó, bất kì một doanh nghiệp
nào muốn tồn tại và phát triển đều phải cạnh tranh, phải tiến hành công tác phát triển
thị trường, xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu. Đó là một yêu cầu thiết yếu
trong kinh doanh bởi lẽ hoạt động xuất khẩu đạt giá trị lớn thì sẽ đảm bảo cho doanh
nghiệp đạt được các mục tiêu cơ bản trong kinh doanh như lợi nhuận, thế lực, thương
hiệu...
Trong thực tế hiện nay mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đến hoạt
động xuất khẩu nhưng họ vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện. Xác định đúng
phương hướng và giải pháp phát triển thị trường phù hợp với tình hình đã là điều
không mấy dễ dàng huy động đầy đủ và phân bổ nguồn lực để thực hiện kế hoạch lại là
điều càng khó khăn hơn. các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu thụ và phải cạnh
tranh rất nhiều hơn nữa không phù hợp nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Chính vì
vậy các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu thực sự cần thiết cho các doanh nghiệp.
Là các mặt hàng thuộc các ngành nghề truyền thống, mang đậm các yếu tố văn hoá
dân tộc, hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đáp ứng nhu cầu ử dụng trong cuộc sống
hàng ngày mà còn là những vật phẩm phục vụ đời sống tinh thần. Khả năng tiêu thụ
mặt hàng này tăng lên cùng với sự cải thiện về đời sống vật chất, tinh thần và sự phát
triển giao lưu kinh tế văn hoá giữa các nước, giữa các dân tộc trên thế giới. Mặc dù
không được chú ý nhiều như các mặt hàng khác như gạo, may mặc, giày dép, thuỷ
sản... nhưng hàng thủ công mỹ nghệ hàng năm vẫn đem lại cho quốc gia một lượng
ngoại tệ không nhỏ. Xuất khẩu hàng thủ công mỹnghệ không chỉ mang kại lợi ích kinh
tế thiết thực cho các doanh nghiệp, cho các quốc gia mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội
to lớn như bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, giải quyết tình trạng dư thừa lao động,
tăng thu nhập cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, có tác dụng đẩy lùi các
hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Xuất phát từ tình hình phát triển thị trường xuất khẩu còn nhiều khó khăn của các
doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội nói
riêng cũng như lợi ích to lớn của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tôi
đã lựa chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ tại Công ty xuất nhập khẩu TOCONTAP Hà Nội.
Báo cáo thực tập được kết cấu gồm 3 phần :
Chương I : Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối
với TOCONTAP.
Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu tại TOCONTAP.
Chương III : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt dộng xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ.
Với kiến thức tiếp thu ở nhà trường cơ quan thực tập và hiểu biết ngoài xã hội, tôi
mong muốn được góp thêm một vài suy nghĩ trong việc đánh giá hoạt động xuất khẩu
và đề ra một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu 8, Công ty
xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội, đặc biệt là thầy Bình, trưởng khoa Kinh tế và kinh
doanh quốc tế, Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội đã tận tình quan tâm, giúp đỡ để hoàn
thành công việc của mình.
CHƯƠNG I:
Hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ và vai trò của xuất khẩu thủ công nghệ
đối với tocontap.
I. vai trò của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.
1. Khái niệm xuất khẩu và vai trò của nó.
a, khái niệm xuất khẩu và phân loại
Xuất khẩu là một quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán nhằm
đạt được mức lợi nhuận cao nhất. Trao đổi hàng hoá là hình thức của các mối quan hệ
kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh
doanh hàng hóa riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là một lĩnh vực quan trọng
nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào các phân công lao động quốc tế, phát
triển kinh tế và làm giầu cho đất nước.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải
là hành vi mua bán riêng lẽ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ
chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy xuất khẩu sản xuất
hàng hoá phát triển, di chuyển cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao mức sống
của nhân dân.
Xuất khẩu là hoạt động đã đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn
vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong
nước tham gia xuất khẩu không thể dễ dàng khống chế được.
Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh xuất khẩu sẽ mang lại nhiều
lợi ích, song có một điểm bất lợi. Muốn có hiệu quả cao phải phát triển và hạn chế tác
hại. Những thuận lợi của xuất khẩu mang lại có thể thấy rõ ràng, bên canh đó xuất khẩu
còn nhiền hạn chế.
Canh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng hoá xuất khẩu. Nếu không
có sự kiểm soát của Nhà nước một cách kịp thời sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán với
nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế xã hội như buôn lậu, trốn thuế, ép gia, ép
cấp… dễ phát triển. Cạnh tranh dẫn đến tình trạng thôn tính lẫn nhau giữ các chủ kinh
tế bằng các biện pháp không lành mạnh như phá hoại cản trở công việc của nhau. Do
đó việc quản lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú
trọng đến văn hoá và đạo đức xã hội.
Xuất khẩu là việc mua bán hàng hoá nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh
và đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng, phức tạp hơn trong nước như giao
dịch với người nước ngoài, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian
chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua
biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau. Phải tuân thêo các tập quán quốc tế cũng
như địa phương.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ
điều tra trị trường nước ngoài lựa chọn hàng hoá xuất khẩu đến hoàn thành các thủ tục
thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặt chúng trong
mối quyan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm bảo đảm hiệu quả kinh
tế, phục vụ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Đối với người tham gia hoạt động xuất khẩu, trước khi bước vào nghiên cứu, thực
hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập
quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu hướng biến động của nó.
Những điều đó phải thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất
khẩu để nắm bắt được các cơ hội trong kinh doanh thương mại quốc tế.
* Các hình thức kinh doanh xuất khẩu trong cơ chế thị trường.
- Xuất khẩu tự doanh:
Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập của một doanh nghiệp, kinh
doanh xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thi trường trong và ngoài nước, tính
toán đầy đủ chi phí, bảo đảm kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng trong phương hướng,
chính sách pháp luật quốc gia cũng nhu quốc tế.
Trong xuất khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào tắt cả. Đây là
hoạt động xuất khẩu được xem xét một cách kỹ càng từ việc nghiên cứu thị trường đến
việc ký kết hợp đồng bởi doanh nghiệp phảI tự bỏ vốn của mình ra, chịu mọi chi phí
giao dịch, nghiên cứu, thăm viếng, giao nhận lưu kho cho tưới chi phí phải giao nhận
hàng hoá, chịu thuế doanh thu. Khi xuất khẩu tự doạnh thì doanh nghiệp xuất khẩu
được tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ được số hàng xuất khẩu thì được
tính doanh số, do đó phải chịu thuế doanh thu.
Đây là hình thức xuất khẩu phức tạp nhất, khó khăn nhất và tự chủ nhất trong các
hình thức. Các bộ kinh doanh phải tự nghiên cứu, thực hiện các bước xuất khẩu sao cho
tận dụng được mọi sự biến động của thị trường, mua được rẻ nhất, bán được đắt nhất và
thời gian ngắn nhất.
- Xuất khẩu uỷ thác:
Xuất khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có
hàng hoá và có nhu cầu khuất khẩu một số hàng hoá nhưng không có quyền tham gia
nhưng không có quyền quan hệ trực tiếp, đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức
năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu
của mình để làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá thêo yêu cầu của bên uỷ thác và được
hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Trong hoạt động xuất khẩu này, doanh nghiệp xuất khẩu (nhân uỷ thác) không phải
bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có) không phải nghiên cứ thị trường tiêu thà chỉ
đứng ra thay mặt cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết
hợp đồng và làm thủ tục xuất khẩu hang hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại,
đòi bồi thường với bên nước ngoài khi tổn thất. Khi tiến hành xuất khẩu uỷ thác thì tại
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không
tính doanh số, do đó không chịu thuế doanh thu. Khi xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp
phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài, một hợp đồng
nội xuất khẩu uỷ thác với bên uỷ thác.
Đây là hình thức xuất khẩu đơn gian nhất, không chịu rủi ro bán hàng, không phải bỏ
vốn kinh doanh. Cán bộ kinh doanh trong phòng nghiệp vụ chỉ việc tiến hành hoạt động
giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây là những nghiệp vụ chuyên môn nên có
thể thự hiện dễ dàng mọi chi phí bên uỷ thác phái chịu và phòng kinh doanh sẽ thu
được % uỷ thác.
- Xuất khẩu liên doanh:
Là hoạt động xuất khẩu hàng hoá trên cơ sở liên doanh kinh tế một cách tự nguyện
giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp)
nhằm phối hợp khả năng để cùng giao dịch đề ra các chủ trương, biện pháp liên quan
hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho tất
cả các bên., cùng chia lãi và cùng chịu lỗ.
So với hoạt động xuất khẩu tự doanh thì các doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn bởi mỗi
doanh nghiệp liên doanh xuất khẩu chỉ đóng góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và
chách nhiệm mỗi bên cùng tham gia số vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu
theo tỷ lệ góp vốn, Lãi và lỗ hai bên phân chia theo thoả thuận dựa trên vốn góp với
phần chách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong xuất khẩu liên doanh, doanh nghiệp
đứng ra xuất hàng sẽ được tính kim nghạch xuất nhập khẩu và chỉ chịu thuế doanh thu
trên số doanh thu của mình. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải lập hai hợp đồng: một
hợp đồng ngoại bán hàng với nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp
khác ( không nhất thiết là doanh nghiệp trong nước)
Hình thức này phát sinh khi phòng nghiệp vụ không đủ khả năng về một nào đó để
tự mình đứng ra xuất khẩu, đồng thời có những đơn vị kinh doanh có thể đáp ứng về
khả năng ấy cũng như cùng chung ý tưởng kinh doanh, do vậy những đơn vị đó cùng
với phòng nghiệp vụ liên doanh với nhau nhằm khắc phục khó khăn cho nhau, cùng
tiến hành xuất khẩu hàng hoá. Thường thì do phòng kinh doanh có nhiệm vụ, có kinh
nghiệm, có bạn giao dịch và được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp đứng ra tiến hành các
bước giao dịch ký kết hợp đồng với nước ngoài còn phía ban liên doanh thường góp
vốn và đảm bảo hàng hoá.
- Xuất khẩu đổi hàng:
Nhập đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại chủ yếu của buôn bán đối lưu,
nó là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu. Thanh toán trong hợp đồng này
không phải dùng tiền mà chính bằng hàng hoá. ở đây mục đích xuất hàng không chỉ để
thu lãi từ hoạt động nhập mà còn nhằm để xuất được hàng.
Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng có thể tiến hành cung một lúc hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu do đó thu lãi từ hoạt động xuất và nhập khẩu này. Hàng
hoá xuất và nhập khẩu tương đương về giá trị, cân bằng về giá cả, nếu có sự chênh lệch
sẽ được thanh toán bù trừ tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.Doanh nghiệp xuất nhập
khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất và kim ngạch nhập. Nhận doanh thu tiêu thụ
hàng xuất và hàng nhập nên chịu thuế doanh thu cả hàng xuất và hàng nhập.
Trong xuất khẩu đổi hàng, biên pháp đảm bảo thực hiện hợp dồng là:
*Dùng thư tín (L/C) đối ứng: đây là loại L/C mà trong nội dung của nó có điều khoản
quy định L/C này có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C có kim ngạch tương đương
*Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ ba chỉ giao
chứng từ đó khi người nhận đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương
đương.
*Phạt về giao thiếu hay giao chậm.
b. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân:
Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn,
là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng xuất khẩu tăng ngoại tệ, tạo điều kiện cho
nhập khẩu và phát triển cơ sơ hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các
ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các ngành kinh tế theo hướng xuất
khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giảI quyết công ăn
việc làm tăng thu ngoại tệ.
. Xuất khẩu tạo nguồn hàng chủ yếu cho nhập khẩu:
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị,
kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành
từ các nguồn sau:
- liên doanh đầu tư với nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch.
- Xuất khẩu sức lao động.
Các nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ… chung ta đều phải trả bằng
các hình thức khác. Để nhập khẩu nguồn vốn quan trong nhất là từ nhập khẩu. Xuất
khẩu quyết định quy mô tốc độ của nhập khẩu. Thời kỳ 1986 đến 1990 nguồn thu của
nước ta từ xuất khẩu chiếm 3/3 tổng nguồng thu ngoại tệ, năm 1994 xuất khẩu đã đảm
bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6% năm 1994. Với xu hướng này, các năm sau kim
ngạch đều tăng lên so với năm trước đó.
Xuất khẩu góp phần dich chuyển lại cơ cấu kinh tế hướng ngoại
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của
cuộc cách mạng khoa học, công nghẹ hiện đại. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản
xuất và chuyển dich cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau:
- Xuất khẩu sản phẩm của nước ta cho nước ngoài
- Xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất những sản
phẩm nước khác cần. Điều đó có tác dụng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận
lợi.Ví dụ, khi phát triển hàng mỹ nghệ xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho phát triển các ngành
trồng trọt cây cối, cây đay, ngành nhuộm… Sự phát triển của các ngành chế biến thực
phẩm xuất khẩu kéo thực sự phát triển của ngành công nghiệp chế rạo thiết bị.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho
sản xuất, khai thác tối đa cho sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những điều kiện kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên
năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác xuất khẩu với cơ sở tăng thêm vốn và kỹ
thuật công nghệ tiên tiến từ các quốc gia bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá
nước ta.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia cuộc cạnh tranh trên thị
trường quốc tế về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản
xuất cho phù hợp với thị trường quốc tế.
- Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác
quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
. Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân:
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nhuồn vốn để
nhập khẩu vật phẩm tiêu thụ thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Sản xuất hàng hoá
xuất khẩu là lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, chính vì vậy có thể mang lại mức lương
cao cho những lao động hoạt động trong lĩnh vực này, nâng cao mức sống cho người
lao động.
. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta:
- Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt
với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt
động kinh tế đối ngoại nên nó thúc đẩy các quan hệ khác phát triển. Chẳng hạn xuất
khẩu và sản xuất hàng hoá xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng đầy tư, vận tải quốc
tế…ngược lại, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo điều kiện cho mở rộng sản
xuất .
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển
kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
II. Các nội dung chủ yếu của hoạt động kinh doanh xuất khẩu:
1, Nghiên cứu thị trưòng, ký kết hợp đồng xuất khẩu:
Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh quốc tế là một loạt các thủ tục
và kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ các thông tin cần thiết, từ
đó đưa ra các quyết định chính xác. Nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm
khách quan và có hệ thống cùng với sự phân tích những thông tin cần thiết để giải
quyết vấn đề Marketing. Bởi vậy nghiên thị trường đang đóng một vai trò để giúp các
nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong công tác kinh doanh và các nhà Marketing nắm
bắt kịp thời, đúng các nhu cầu.
Nghiên cứu thị trường thực chất là phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá có hệ
thống và tỷ mỷ với mục đích tìm ra những điều cần thiết, thích hợp để tìm thị trường
cho các hàng hoá, dịch vụ nào đó, trong một khoảng thời gian và nguồn lực hạn chế .
Nghiên cứu thị trường hàng hoá để các nhà Marketing biết được quy luật vận động
của nó. Mỗi thị trường hàng hoá có quy luật vận động riêng, những quy luật này thể
hiện qua việc biến đổi về nhu cầu, sự cung cấp và giá cả trên thị trường đó. Nắm vững
các quy luật về thị trường hàng hoá giúp các nhà quản trị lập chiến lược Marketing xuất
khẩu chung cho các hàng hoá của doanh nghiệp và giải quyết các vấn đề thực tiễn trong
kinh doanh.
Sau khi nghiên cứu thị trường, có những thông tin chính xác về thị trường đó,
chúng ta cần tìm kiếm đối kinh doanh. Trong mỗi thường vụ kinh doanh, các nhà kinh
doanh cần phải ký kết hợp đồng nhằm mục đích tránh rủi ro. Hợp đồng là văn bản
bằng chứng ghi rõ những điều khoản của hai bên trên giấy trắng mực đen có chữ ký và
dấu của hai bên. Hợp đồng trong buôn bán quốc tế là rất cần thiết. Bởi vì trong kinh
doanh thương mại quốc tế giữa các nước khác nhau về ngôn ngữ, pháp luật, chính trị,
tôn giáo, tập quán.
2. Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá:
Giấy phép xuất khẩu hàng hoá là vấn đề qua trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến
hành các khâu khác để tiuến hành xuất khẩu hàng hoá. Với hướng hợp tác quốc tế. Nhà
nước tạo thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh làm hàng ghoá xuất khẩu và xuất
khẩu những hàng hoá không trái quy định của nhà nước. Nhà nước quản lý xuất khẩu
bằng quota và bằng luật pháp, hàng hoá và đối tượng quản lý.
Thực tế nước ta, trước 15.12.1995 giấy phép xuất khẩu là một phần quản lý hết
sức rộng rãi. Những tốc độ và quy mô xuất khẩu ngày càng ra tăng mạnh mẽ nên giấy
phép xuất khẩu trở thành vật cản trở, ké