Xu hướng toàn cầu hoá ngày càng mở rộng làm cho nền kinh tế thế giới
tiến dần tới một chỉnh thể thống nhất. Các nền kinh tế của các quốc gia có xu
hướng mở và đan xen vào nhau, dựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển. Hiện
nay, xuất khẩu ở Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng
đang gặp phải rất nhiều khó khăn, thử thách từ các cuộc khủng hoảng tài chính,
sự biến động liên tục của giá cả các mặt hàng xuất khẩu chính, sự cạnh tranh của
thị trường. Trong tình hình chung đó, để tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh
nghiệp phải đổi mới phương pháp kinh doanh cho phù hợp là một vấn đề cấp
bách.
Công ty Phát triển khoáng sản (MIDECO) là một doanh nghiệp nhà nước
có chức năng sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu khoáng sản, đá ốp lát đứng
hàng đầu ở Việt Nam. Để vượt qua những khó khăn và tồn tại hiện nay, Công ty
không ngừng hoàn thiện chiến lược phát triển lâu dài, lập các kế hoạch, các biện
pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh để khẳng định vai trò của
Công ty trên thị trường trong và ngoài nước.
Qua thời gian thực tập tại Công ty Phát triển khoáng sản (MIDECO), kết
hợp với lý thuyết đã học ở trường em đã hoàn thành Luận văn với đề tài " Thực
trạng và một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng đá
ốp lát của Công ty Phát triển khoáng sản ".
34 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2295 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng đá ốp lát tại Công ty Phát triển khoáng sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Thực trạng và một số biện pháp
nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu mặt hàng đá ốp lát của Công
ty Phát triển khoáng sản
Lời nói đầu
Xu hướng toàn cầu hoá ngày càng mở rộng làm cho nền kinh tế thế giới
tiến dần tới một chỉnh thể thống nhất. Các nền kinh tế của các quốc gia có xu
hướng mở và đan xen vào nhau, dựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển. Hiện
nay, xuất khẩu ở Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng
đang gặp phải rất nhiều khó khăn, thử thách từ các cuộc khủng hoảng tài chính,
sự biến động liên tục của giá cả các mặt hàng xuất khẩu chính, sự cạnh tranh của
thị trường. Trong tình hình chung đó, để tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh
nghiệp phải đổi mới phương pháp kinh doanh cho phù hợp là một vấn đề cấp
bách.
Công ty Phát triển khoáng sản (MIDECO) là một doanh nghiệp nhà nước
có chức năng sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu khoáng sản, đá ốp lát đứng
hàng đầu ở Việt Nam. Để vượt qua những khó khăn và tồn tại hiện nay, Công ty
không ngừng hoàn thiện chiến lược phát triển lâu dài, lập các kế hoạch, các biện
pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh để khẳng định vai trò của
Công ty trên thị trường trong và ngoài nước.
Qua thời gian thực tập tại Công ty Phát triển khoáng sản (MIDECO), kết
hợp với lý thuyết đã học ở trường em đã hoàn thành Luận văn với đề tài " Thực
trạng và một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng đá
ốp lát của Công ty Phát triển khoáng sản ".
Luận văn này phân tích tình hình hoạt động xuất khẩu của Công ty, những
thành tựu đạt được, những khó khăn còn tồn tại, qua đó trình bày một số biện
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu mặt hàng đá ốp lát.
Luận văn được kết cấu như sau:
Lời nói đầu
Chương I: Khái quát chung về hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu đá ốp lát của Công
ty Phát triển khoáng sản (MIDECO)
Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt
hàng đá ốp lát của Công ty Phát triển khoáng sản (MIDECO)
Chương I
khái quát chung về hoạt động
kinh Doanh xuất khẩu
I. khái niệm, vai trò của hoạt động xuất khẩu
1. Khái niệm
- Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia
này sang một quốc gia khác trên cơ sở dùng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán,
nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời
sống nhân dân.
Đây là hoạt động giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác
nhau, thị trường vô cùng rộng lớn khó kiểm soát, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ
mạnh, hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia. Các quốc gia khác
tham gia vào hoạt động giao dịch buôn bán này phải tuân thủ theo những tập
quán, thông lệ quốc tế cũng như thông lệ của quốc gia mình.
Đặc trưng cơ bản của xuất khẩu là:
+ Dòng hàng hoá và dịch vụ đi từ trong nước ra nước ngoài
+ Dòng ngoại tệ đi từ nước ngoài vào trong nước thông qua các phương
tiện thanh toán quốc tế.
- Ngoài việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra ngoài biên giới, hiện nay
còn có xuất khẩu tại chỗ để phục vụ cho doanh nghiệp nước ngoài tại các khu chế
xuất, khu thương mại tự do.
2. Vai trò
2.1. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề chuyển giao để phát triển kinh tế
và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất
khẩu thể hiện trên các mặt sau:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản
xuất phát triển, có điều kiện để tập trung phát triển ngành, lĩnh vực kinh tế có lợi
thế so sánh.
Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác cùng có cơ hội phát
triển. Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu thì các ngành khác như
chế biến nguyên liệu bông, hay thuốc nhuộm… cũng có cơ hội phát triển.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần
ổn định sản xuất.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất, hay xuất khẩu chính là phương tiện cơ bản để tạo ra vốn, thu
hút kỹ thuật, công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế
nội địa.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ phải tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới cả về chất lượng cũng như giá cả. Cuộc cạnh tranh
này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn
thích nghi được với thị trường.
Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống của nhân dân. Tác động đó thể hiện ở chỗ: sản xuất hàng hoá xuất
khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc tạo thu nhập ổn định. Xuất
khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ
đời sống và đáp ứng ngày một phong phú hơn trong tiêu dùng của người dân.
Trên cơ sở đó góp phần vào việc làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy
thế mạnh của từng nền kinh tế riêng biệt mỗi nước.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của một quốc gia. Đồng thời nó cũng là một yếu tố quan trọng một hướng đi cơ
bản thúc đẩy sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
2.2. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
Xuất khẩu có vai trò rất lớn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có thêm rất nhiêù cơ
hội để tiêu thụ sản phẩm của mình với khối lượng lớn và các chủng loại hàng hoá
phong phú đa dạng khác nhau.
Nhờ có xuất khẩu mà doanh nghiệp luôn luôn sẵn sàng đổi mới hoàn thiện
cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường và theo kịp sự phát triển
chung của thế giới.
Doanh nghiệp trong quá trình tiến hành hoạt động xuất khẩu có nhiều cơ
hội mở rộng quan hệ làm ăn buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài. Qua đó sẽ
tiếp thu được nhiều kinh nghiệm trong việc kinh doanh, quản lý doanh nghiệp
của mình.
Nguồn ngoại tệ do xuất khẩu mang lại giúp doanh nghiệp có thêm nguồn
tài chính mạnh để tái đầu tư vào quá trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu.
II. Nội dung và các hình thức xuất khẩu
1. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Cùng với quá trình phát triển lâu dài của mình, các hình thức kinh doanh
xuất khẩu ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Hầu hết các hình thức đều cố
gắng khai thác tối đa những lợi thế do xuất khẩu mang lại. Tuy nhiên trong điều
kiện nền kinh tế còn yếu như nước ta, các hình thức xuất khẩu của các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu còn nghèo nàn và chưa sử dụng các nguồn lực
trong nước để xuất khẩu có hiệu quả cao như các nước khác trong khu vực. Các
hình thức chủ yếu:
1.1. Xuất khẩu trực tiếp
Là hình thức mà nhà xuất khẩu gặp trực tiếp hoặc quan hệ trực tiếp qua
điện tín để thoả thuận về hàng hoá giá cả cũng như các biện pháp giao dịch với
người nhập khẩu. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện
không ràng buộc. Các công việc chủ yếu của loại hình này là nhà xuất khẩu phải
tìm hiểu thị trường tiếp cận khách hàng, người nhập khẩu sẽ hỏi giá và đặt hàng,
nhà xuất khẩu chào giá, hai bên kết thúc quá trình hoàn giá và ký kết hợp đồng.
1.2. Xuất khẩu qua trung gian
Khác với hình thức xuất khẩu trực tiếp, trong hình thức xuất khẩu uỷ thác
tất cả mọi việc kiến lập quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu cũng
như việc quy định các điều kiện mua bán phải thông qua một người thứ ba được
gọi là người nhận uỷ thác. Người uỷ thác tiến hành hoạt động xuất khẩu với danh
nghĩa của mình nhưng mọi chi phí đều do bên có hàng xuất khẩu, bên uỷ thác
thanh toán. Về bản chất chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thù lao trả
cho đại lý.
1.3. Buôn bán đối lưu (hàng đổi hàng)
Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu phải kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu. Nhà xuất khẩu đồng thời là nhà nhập khẩu, mục đích để thu về
hàng hoá có giá trị tương đương với hàng xuất khẩu, bởi vậy nó còn gọi là
phương thức đổi hàng. Trong hoạt động xuất khẩu này yêu cầu cân bằng về mặt
hàng, giá cả, tổng giá trị và điều kiện giao hàng được đặc biệt chú ý.
1.4. Gia công quốc tế
Là phương thức kinh doanh mà người đặt mua gia công ở nước ngoài
cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu theo mẫu hàng và định mức trước.
Người nhận gia công làm theo yêu cầu của khách hàng, toàn bộ sản phẩm
làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công và để nhận một
khoản tiền thù lao còn gọi là phí gia công.
Gia công quốc tế là hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản
xuất, thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu cũng chính là nơi tiêu
thụ mặt hàng đó, đồng thời nó có tác dụng là xuất khẩu lao động tại chỗ, trường
học về kỹ thuật và quản lý và là quá trình tích luỹ vốn cho những nước ít vốn.
1.5. Tái xuất khẩu
Tái xuất là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hoá đã được nhập
khẩu nhưng chưa qua dỡ bến ở nước tái xuất.
2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
2.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một
nhà kinh doanh nào muốn tham gia trên thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị
trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận
động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi cung cầu, hàng cung
ứng, giá cả trên thị trường, qua đó giúp nhà kinh doanh giải quyết được các vấn
đề của thực tiễn kinh doanh cũng như yêu cầu của thị trường.
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển
vọng bán hàng của một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương
pháp để thực hiện mục tiêu đó. Hoặc cũng có thể hiểu đó là quá trình thu thập
thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích số liệu đó và rút ra kết luận.
Những kết luận này sẽ giúp các nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn để lập kế
hoạch Maketing…. Chính vì thế, nghiên cứu thị trường là một hoạt động đóng
vai trò ngày càng quan trọng giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn trong
hoạt động xuất khẩu của mình.
2.1.1 Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
Đây là một trong những nội dung ban đầu, cơ bản nhưng rất quan trọng và
cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Để lựa chọn được mặt hàng mà thị
trường cần, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu, phân tích có
hệ thống nhu cầu thị trường, xem thị trường đang cần mặt hàng gì, thị hiếu và
thời gian tiêu dùng của khách hàng… dẫn đến nắm bắt được tình hình tiêu dùng
mặt hàng đó và đưa ra thị trường một mặt hàng kinh doanh có lợi hơn cả.
2.1.2 Lựa chọn bạn hàng
Lựa chọn bạn hàng căn cứ khả năng tài chính, căn cứ vào phương thức,
phương tiện thanh toán, uy tín và mối quan hệ của bạn hàng trong kinh doanh.
Việc lựa chọn bạn hàng trong kinh doanh có căn cứ khoa học là điều kiện quan
trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động xuất khẩu. Song việc lựa chọn bạn
hàng kinh doanh cũng tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và
truyền thống kinh doanh của mình. Lựa chọn bạn hàng luôn theo nguyên tắc đôi
bên cùng có lợi.
2.2. Lập phương án kinh doanh và thành lập tổ giao dịch xuất khẩu
2.2.1. Lập phương án giao dịch xuất khẩu
Phương án giao dịch là kế hoạch hành động cụ thể của một giao dịch mua
bán hàng hoá và dịch vụ. Muốn lập phương án giao dịch xác thực và có tác dụng
chỉ đạo cụ thể cho hoạt động kinh doanh, nhà kinh doanh phải tiến hành tốt công
tác nghiên cứu tiếp cận thị trường.
* Xác định tổng quát về diễn biến trên thị trường thế giới và thị trường
khu vực.
* Lựa chọn mặt hàng kinh doanh và xác định số mặt hàng kinh doanh. Để
xác định số lượng mặt hàng xuất khẩu, nhà xuất khẩu phải nắm được nguồn cung
cấp hàng xuất khẩu, các hợp đồng đã ký, hạn ngạch được cấp hoặc chỉ tiêu xuất
khẩu đã đăng ký.
* Lựa chọn phương thức giao dịch, thị trường và khách hàng giao dịch.
Chọn nước để xuất khẩu: cần tìm hiểu xem tình hình sản xuất mặt hàng đó
ra sao? nhu cầu tiêu dùng của nước đó? Tìm hiểu khả năng dự trữ ngoại tệ để lựa
chọn phương thức bán thích hợp và tìm hiểu xem họ còn nhập mặt hàng này từ
nước nào.
Chọn thời gian giao dịch: thời gian giao hàng cho phù hợp với yêu cầu của
họ sẽ đạt được giá bán cao. Ví dụ: giao quần áo rét nên vào mùa thu.
Chọn phương thức giao dịch: hiện nay, có rất nhiều phương thức giao dịch
khác nhau như giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch thông
qua hội chợ hay triển lãm. Tuỳ vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn
phương thức giao dịch sao cho đảm bảo các mục tiêu của sản xuất kinh doanh.
2.2.2. Thành lập tổ chức giao dịch
Để tiến hành giao dịch xuất khẩu, doanh nghiệp phải thành lập tổ chức
giao dịch. Tổ chức đó có thể là một cán bộ kinh doanh, có thể là một nhóm cộng
tác, một tổ công tác trong phòng kinh doanh hoặc một số phòng xuất khẩu.
Việc lựa chọn hình thức tổ chức phải xem xét đến các nhân tố: doanh số
xuất khẩu, đặc điểm mặt hàng kinh doanh, triển vọng tình hình kinh doanh, trình
độ của đội ngũ cán bộ và nghiệp vụ của họ về ngoại thương.
2.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng
* Đàm phán: Đàm phán là việc trao đổi, bàn bạc với nhau về các điều kiện
mua bán giữa các doanh nghiệp xuất khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Có nhiều
hình thức đàm phán như đàm phán qua thư tín, qua điện thoại, đàm phán bằng
gặp mặt trực tiếp.
Một cuộc đàm phán thông thường bao gồm các nội dung: chào hàng -
hoàn giá - chấp nhận - xác nhận.
* Ký kết hợp đồng: Hợp đồng xuất khẩu là loại hợp đồng mua bán đặc
biệt, trong đó quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá
cho người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền
ngang trị giá hàng hoá bằng các phương tiện thanh toán quốc tế.
- Những người ký hợp đồng phải là những người có đủ thẩm quyền chịu
trách nhiệm về nội dung ký kết.
- Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân thủ đúng luật pháp quốc tế
cũng như luật pháp của các bên ký.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng
Sau khi hợp đồng được ký kết, cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung, trình
tự công việc phải làm:
Sơ đồ trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu
* Kiểm tra L/C
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, bên nhập khẩu sẽ mở L/C ở ngân hàng
giao dịch của mình, ngân hàng này thông báo việc mở L/C cho ngân hàng mà
bên xuất khẩu giao dịch. Bên xuất khẩu sẽ kiểm tra lại việc mở L/C xem có đúng
Ký kết
hợp
đồng
xuất
Kiểm
tra
L/C
Xin
giấy
phép
xuất
Chuẩn
bị hàng
xuất
khẩu
Uỷ
thác
thuê
tàu
Kiểm
tra
hàng
hoá
Làm
thủ
tục
hải
Giao
hàng
lên tàu
Mua bảo
hiểm
hàng
hoá
Làm thủ
tục
thanh
toán
Giải
quyết
khiếu
nại nếu
thời hạn, nội dung như hợp đồng quy định không, nếu chưa phù hợp thì phải yêu
cầu bên nhập khẩu sửa lại bằng văn bản.
* Xin giấy phép xuất khẩu
Trong một số trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục nhà nước
quản lý như gạo, sách báo, đá quý, kim loại quý… thì doanh nghiệp cần phải tiến
hành xin giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ Thương
mại quản lý.
* Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Đối với những doanh nghiệp, sau khi thu gom nguyên vật liệu sản xuất ra
sản phẩm, cần phải lựa chọn, kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu, kẻ ký
mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và phù hợp với luật pháp của nước
nhập khẩu.
* Thuê tàu lưu cước
Việc thuê tàu chở hàng thường dựa vào các căn cứ sau:
- Những điều khoản của hợp đồng xuất khẩu.
- Đặc điểm của hàng hoá mua bán.
- Điều kiện vận tải.
Có hai cách thuê tàu chở hàng sau:
- Thuê tàu chợ: thường áp dụng đối với hàng có khối lượng ít, không cồng
kềnh.
- Thuê tàu chuyến: áp dụng đối với hàng có khối lượng lớn.
Trong nhiều trường hợp đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường uỷ thác việc
thuê tàu lưu cước cho một đơn vị vận tải thuê tàu.
* Kiểm định hàng hoá
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số
lượng, khối lượng của hàng hoá. Việc kiểm tra được tiến hành ở hai cấp: ở cơ sở
và ở cửa khẩu nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và uy tín của nhà sản
xuất.
* Làm thủ tục hải quan
Hàng hoá khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ
tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm hàng hoá
về số lượng chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các
chứng từ cần thiết phải xuất trình kèm theo là: giấy phép xuất khẩu, phiếu đóng
gói, bảng kê chi tiết…
- Xuất trình hàng hoá.
- Thực hiện các quyết định của hải quan.
* Mua bảo hiểm hàng hoá
- Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng
đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo hiểm
cho hàng hoá. Công việc này được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có
hai loại hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm
chuyến. Khi mua bảo hiểm cần lưu ý những điều kiện bảo hiểm và lựa chọn công
ty bảo hiểm.
* Giao hàng lên tàu
Trong mục này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau:
- Lập bản đăng ký hàng chuyên chở.
- Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng.
- Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng.
- Bố trí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn
đường biển và chuyển nhượng được, sau đó lập bộ chứng từ thanh toán.
* Thủ tục thanh toán
Thanh toán là khâu trọng tâm và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao
dịch kinh doanh xuất khẩu. Có hai phương thức thanh toán được áp dụng rộng rãi
trong kinh doanh xuất nhập khẩu sau:
- Thanh toán bằng thư tín dụng.
- Thanh toán bằng phương thức nhờ thu.
3. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu
* Yếu tố chính trị: là những nhân tố khuyến khích hoặc hạn chế quá trình
quốc tế hoá hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, chính sách của chính phủ có thể
làm tăng sự liên kết các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng hợp đồng xuất
khẩu bằng việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, thiết lập các mối
quan hệ trong cơ sở hạ tầng của thị trường. Khi không ổn định về chính trị sẽ cản
trở sự phát triển kinh tế của đất nước và tạo ra tâm lý không tốt cho các nhà kinh
doanh.
* Yếu tố kinh tế như tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng… tác động đến
hoạt động xuất khẩu ở tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô chúng tác động đến đặc
điểm và sự phân bổ các cơ hội kinh doanh quốc tế cũng như qui mô của thị
trường. ở tầm vi mô các yếu tố giá cả và sự phân bổ tài nguyên ở các thị trường
khác nhau cũng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, phân bố nguyên - vật - liệu,
vốn, lao động và do đó ảnh hưởng tới giá cả và chất lượng hàng hoá xuất khẩu.
* Yếu tố luật pháp
Mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng để điều chỉnh các hoạt động kinh
doanh quốc tế ràng buộc các hoạt động của doanh nghiệp. Các yếu tố luật pháp
ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu trên những mặt sau:
- Quy định về giao dịch hợp dồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu
trí tuệ
- Quy định về cạnh tranh độc quyền, các loại thuế
- Quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, giao hàng,
thực hiện hợp đồng…
*Yếu tố cạnh tranh
Hiện nay nhà nước đang chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế,
tự do buôn bán kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Vì vậy một
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sẽ phải đương đầu cạnh tranh với rất nhiều
đơn vị khác thuộc mọi thành phần kinh tế. Một cuộc cạnh tranh thực sự diễn ra
giữa các doanh nghiệp, chính yếu tố này đặt doanh nghiệp trước vấn đề sống còn
trong kinh doanh. Yếu tố cạnh tranh này buộc các doanh nghiệp này phải nhạy
bén, linh hoạt với thị trường. Trong cơ chế thị trường, để có được các hợp đồng
xuất khẩu hấp dẫn thì các doanh nghiệp phải tự giao dịch đôi khi p