Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp, việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thương mại.
Để đảm bảo người mua chịu trả nợ khi đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay “thương phiếu”.
Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.
9 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5199 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thương phiếu ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o0o – HỌC VIỆN NGÂN HÀNG – o0o
TÀI CHÍNH HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
CHỦ ĐỀ
“THƯƠNG PHIẾU Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
Lớp: H204 – Ca 4 – Thứ 4
Sinh viên thực hiện:
Hồ Mậu Lượng -0989394289
Lớp: NHTMA-K13
ĐỀ TÀI: THƯƠNG PHIẾU Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NỘI DUNG CHÍNH
Trang
I. Cơ sở lý luận về thị trường thương phiếu:……………………………....….02
1. Sự ra đời của thương phiếu:……………………………………….....02
2. Các hình thức của thương phiếu:…………………………………….....02
2.1. Hối phiếu……………………………………………………..02
2.2. Lệnh phiếu…………………………………………………......03
3. Tính chất của thương phiếu:……………………………………………03
3.1. Tính trừu tượng………………………………………………03
3.2. Tính bắt buộc…………………………………………………..03
3.3. Tính lưu thông……………………………………………….03
4. Ích lợi và nhược điểm của thương phiếu………………………………03
4.1. Lợi ích:………………………………………………………..03
4.2. Nhược điểm:………………………………………………….04
II. Thực trạng sử dụng thương phiếu ở Việt Nam:………………………......04
III. Giải pháp để đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế:…………………..05
1. Hành lang pháp lý:…………………………………………………….05
2. Kết luận:………….…………………………………………………..07
ĐỀ TÀI: THƯƠNG PHIẾU Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I. Cơ sở lý luận về thị trường thương phiếu:
1. Sự ra đời của thương phiếu:
Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp, việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thương mại.
Để đảm bảo người mua chịu trả nợ khi đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay “thương phiếu”.
Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.
2. Các hình thức của thương phiếu:
Thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:
Hối phiếu: Hối phiếu (Bill of exchange, draft) là mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện dưới dạng văn bản do một người ký phát (gọi là người ký phát hối phiếu: drawer) cho một người khác (gọi là người thụ tạo: drawee), yêu cầu người này ngay khi nhìn thấy hối phiếu hoặc vào một ngày cụ thể nhất định hoặc vào một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho người đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu (gọi chung là người được trả tiền: payee).
Căn cứ và thời hạn thanh toán: hối phiếu trả ngay và hối phiếu trả sau
- Hối phiếu trả ngay: Là hối phiếu mà người trả tiền phải thanh toán ngay khi nhìn thấy hối phiếu (thường là sau hai ngày làm việc).
- Hối phiếu trả sau, hối phiếu có kỳ hạn (usance bill) quy định sau một thời gian nhất định (có thể là sau một thời hạn nhất định kể từ ngày ký phát hối phiếu, sau ngày chấp nhận hối phiếu, sau ngày ký trên vận đơn B/L).
- Căn cứ vào chứng từ kèm theo hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành hai loại:
+ Hối phiếu trơn: Là hối phiếu mà việc thanh toán tiền trên hối phiếu này không kèm theo chứng từ thương mại. Thường được sử dụng để thu cước phí vận tải, đòi nợ cũ...
+ Hối phiếu kèm chứng từ: Là loại hối phiếu được gửi kèm theo chứng từ thương mại đến người có nghĩa vụ trả tiền.
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành hai loại:
+ Hối phiếu đích danh: Là loại hối phiếu ghi rõ tên người thụ hưởng, loại hối phiếu này không thể chuyển nhượng bằng nguyên tắc ký hậu
+ Hối phiếu theo lệnh: Là loại hối phiếu yêu cầu người thanh toán trả tiền theo lệnh của người thụ hưởng hối phiếu. Hối phiếu theo lệnh được chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu theo luật định.
- Căn cứ vào chủ thế ký phát hối phiếu chia làm hai loại:
+ Hối phiếu thương mại: Là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát đòi tiền người nhập khẩu, liên quan đến nghiệp vụ thanh toán hàng hoá xuất khẩu hoặc cung ứng dịch vụ.
+ Hối phiếu Ngân hàng: Là hối phiếu do Ngân hàng phát hành lệnh cho Ngân hàng đại lý của mình thanh toán tiền nhất định cho người thụ hưởng được chỉ định trên hối phiếu ( loại hối phiếu này không thể chuyển nhượng ).
2.2. Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Như vậy, hối phiếu là lệnh đòi tiền do chủ nợ lập và chỉ sử dụng trong quan hệ thương mại, còn lệnh phiếu thì do người mua chịu lập, được sử dụng không chỉ trong quan hệ thương mại mà còn trong các quan hệ dân sự khác.
3. Tính chất của thương phiếu:
3.1. Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người trả tiền.
3.2. Tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.
3.3. Tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Tính chất này khiến thương phiếu trở thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và mệnh giá thương phiếu.
4. Ích lợi và nhược điểm của thương phiếu
4.1. Lợi ích:
- Thứ nhất, nhờ vào tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ.
- Thứ hai, nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp.
- Thứ ba, thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục nguồn vốn của mình.
- Thứ tư, thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông.
- Thứ năm, trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.
- Thứ sáu, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình…
4.2. Nhược điểm:
Thương phiếu có nhiều lợi ích như vậy, tuy nhiên, thương phiếu khi vận dụng vào thực tế cũng có những nhược điểm nhất định:
- Thứ nhất, do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.
- Thứ hai, với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.
- Thứ ba, quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.
Tuy vậy, do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân hàng nên những khiếm khuyết nêu trên của tín dụng thương mại và của sự vận dụng thương phiếu sẽ giảm đến mức xem như không đáng kể.
II. Thực trạng sử dụng thương phiếu ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, trong thời kỳ áp dụng cơ chế tập trung, bao cấp, Nhà nước can thiệp rất sâu trong hoạt động kinh tế. Các tổ chức kinh tế, công dân chưa được tự do kinh doanh; pháp luật kinh doanh nói chung cũng như pháp luật thương mại chưa được chú trọng. Điều này chỉ thật sự được đổi mới và phát triển từ khi Đảng và Nhà nước chuyển hướng phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong hoàn cảnh đó, thương phiếu và pháp luật thương phiếu chỉ được đề cập trong những năm gần đây: Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh Thương phiếu được UBTVQH thông qua ngày 24/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000, và Nghị định số 32/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/7/2001 (sau đây gọi tắt NĐ 32) hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh thương phiếu. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật vừa nêu, theo chúng tôi, vẫn được coi là chưa đủ để có một môi trường pháp lý thuận tiện cho thương phiếu hoạt động.
Những ích lợi kinh tế nêu trên khi đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế thì đã quá rõ, thế nhưng trong thời gian qua, thương phiếu và các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu vẫn chưa đi vào đời sống kinh tế ở Việt Nam vì những lý do chủ yếu như sau:
- Hiện nay, pháp luật về thương phiếu được quy định tại Luật Thương mại, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh Thương phiếu, qua đó đã bước đầu hình thành khung pháp lý cho việc phát hành và sử dụng thương phiếu, nhưng do việc xây dựng và ban hành khi chưa có thực tiễn nên đã bộc lộ một số bất cập như chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, chưa khả thi, chưa phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Vì pháp luật về thương phiếu ở Việt Nam chưa hoàn chỉnh nên luật áp dụng cho quan hệ phát hành, sử dụng thương phiếu trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam thường là Luật Thống nhất về hối phiếu của Công ước Geneva năm 1930 hoặc Luật Hối phiếu 1882 của Vương Quốc Anh, các doanh nghiệp Việt Nam không thể thoả thuận, lựa chọn pháp luật của Việt Nam để điều chỉnh. Trong quan hệ mua bán trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa sử dụng thương phiếu làm công cụ thanh toán phổ biến, các ngân hàng thương mại chưa có đủ điều kiện để cho các doanh nghiệp vay vốn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu.
- Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá, người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có lòng tin đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của thương phiếu khi đến hạn.
- Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu, chưa ban hành mẫu biểu cụ thể cho thương phiếu để nó có thể trở thành một công cụ lưu thông tín dụng pháp định có thể thay thế cho tiền mặt trong lưu thông
- Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn còn kém.
III. Giải pháp để đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế:
1. Hành lang pháp lý:
Trước thực trạng về khung pháp lý và tình hình sử dụng thương phiếu ở Việt Nam, Chính phủ đã trình Quốc hội xây dựng Luật Hối phiếu nhằm bảo hộ, khuyến khích việc hình thành, phát triển và sử dụng các loại hối phiếu trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, tạo cơ sở pháp lý phù hợp hơn với thể chế, chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI, Dự thảo Luật Hối phiếu đã được các đại biểu Quốc hội cho ý kiến. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các Đại biểu Quốc hội, Ban soạn thảo Luật đã hoàn thành việc chỉnh lý Dự thảo (lần 9) Luật Hối phiếu trình Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội xem xét, chuẩn bị trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khoá XI.
Theo dự thảo lần 9, Luật Hối phiếu điều chỉnh các quan hệ liên quan đến hối phiếu trong việc phát hành, chấp nhận, chuyển nhượng, bảo lãnh, cầm cố, thanh toán, truy đòi, khởi kiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hối phiếu quy định trong Luật bao gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc; người ký phát, người phát hành chỉ được phát hành hối phiếu trên cơ sở các quan hệ thương mại, quan hệ tín dụng hoặc quan hệ thanh toán.
Bình luận về Dự thảo lần 9 Luật Hối phiếu, Dự án STAR-Việt Nam (thuộc Chương trình hỗ trợ kỹ thuật của Chính phủ nhằm thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ) cho rằng, về cơ bản Dự thảo Luật đã tuân thủ các thông lệ quốc tế, song vẫn còn những điểm cần phải hoàn thiện thêm, trong đó có một số điểm đáng chú ý, như:
- Về tên của Dự thảo Luật: nên xem xét đổi tên thành “Luật Hối phiếu và Lệnh phiếu” vì hối phiếu nhận nợ nhìn chung được hiểu là một loại công cụ khác với hối phiếu đòi nợ.
- Về cơ sở phát hành hối phiếu: Việc quy định “người ký phát, người phát hành chỉ được phát hành hối phiếu trên cơ sở các quan hệ thương mại, quan hệ tín dụng hoặc quan hệ thanh toán” có vẻ như hạn chế việc sử dụng hối phiếu và sẽ ảnh hưởng đến khả năng chuyển nhượng của hối phiếu. Ví dụ, sẽ như thế nào nếu xảy ra tình huống các bên chuyển nhượng hối phiếu nghi ngờ về quyền nhận thanh toán của người thụ hưởng hối phiếu vì cho rằng người ký phát hoặc người phát hành đầu tiên đã không phát hành hối phiếu này trên cơ sở một trong các mối quan hệ quy định ở trên. Theo Star - Việt Nam, từ trước tới nay, bất cứ người nào cũng có thể sử dụng hối phiếu (kể cả séc), việc hạn chế sử dụng chỉ căn cứ vào các hạn chế thông thường về năng lực tham gia quan hệ pháp luật của người đó (như năng lực tư duy, độ tuổi thích hợp).
Quy định “chữ ký của người đại diện của tổ chức trên hối phiếu phải kèm theo dấu” sẽ khiến các công ty nước ngoài gặp khó khăn.
- Về các nội dung cần thiết của hối phiếu: nên bỏ quy định phải nêu rõ địa chỉ của người ký phát, người thụ hưởng, nơi thanh toán (trong hối phiếu đòi nợ) và địa chỉ của bên phát hành (trong phối phiếu nhận nợ) vì các quy định này hơi rườm rà và có vẻ trái với thông lệ quốc tế. Tương tự, quy định nêu địa chỉ của người ký phát trên một tờ séc không phải là một thông lệ phổ biến.
Quy định về xử lý vi phạm quá chung chung, cách tốt hơn là nên phân biệt các vi phạm gây ra hậu quả dân sự và làm phát sinh chế tài dân sự với các vi phạm có tính hình sự (như gian lận hay giả mạo).
Cũng theo Star - Việt Nam, cùng với các đạo luật như Luật dân sự, Luật Thương mại, Luật doanh nghiệp, Luật về công cụ chuyển nhượng (bao gồm cả hối phiếu và séc) là một phần của hệ thống pháp luật cho một nền kinh tế thị trường. Việc sử dụng và phát triển công cụ chuyển nhượng, thị trường tiền tệ và thị trường tài chính nói chung phụ thuộc nhiều vào khả năng giải quyết tranh chấp liên quan đến công cụ chuyển nhượng của Tòa án có nhanh chóng, hiệu quả và công bằng hay không, do vậy Luật Hối phiếu cần được soạn thảo kỹ càng để qui định về vai trò này của Toà án.
Công cụ chuyển nhượng xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, là công cụ để các doanh nghiệp thực hiện thanh toán quốc tế và tham gia vào thị trường tài chính quốc tế nên Luật Hối phiếu cần được xây dựng trên cơ sở tham khảo kỹ thực tiễn kinh doanh tại Việt Nam, lấy ý kiến rộng rãi của cộng đồng doanh nghiệp và ngân hàng tại Việt Nam, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới để tạo điều kiện cho việc hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
2. Kết luận:
Từ các vấn đề nêu trên, ta có những giải pháp để đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt Nam trong thời gian trước mắt:
- Thứ nhất, nhanh chóng tạo dựng một hành lang pháp lý cho sự tồn tại và cho việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu được an toàn và thuận lợi. Mặc dù Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và Chính Phủ đã ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001 hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên nhưng vẫn còn nhiều bất cập như chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế…
- Thứ hai, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về thương phiếu và ích lợi của thương phiếu đến các doanh nghiệp, là những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương phiếu.
- Thứ ba, nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) dể có thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán thương phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.
- Thứ tư, trong thời gian đầu Nhà nước cần có những ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp cũng như các Tổ chức tín dụng có tham gia vào quan hệ thương phiếu.
- Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông tư hướng dẫn để các ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu như bảo lãnh, chiết khấu và cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh chóng ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ chuyển nhượng…
Trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản được đưa ra, tuy nhiên, nếu thực hiện được, thì việc đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt Nam chắc chắn sẽ trở thành hiện thực.