Ở làng các làng xã, nông thôn Việt Nam, Thành Hoàng là một niềm tin
thiêng liêng, một chỗ dựa tin Thần cho cộng đồng từ bao đời nay. Thờ cúng
Thành Hoàng cũng giống như Thờ cúng tổ tiên, nó mang đậm dấu ấn tâm
linh và Thể hiện quan niệm “ uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt
Nam.
Thành Hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao
quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi
giữ, bảo trợ cho cái thành.
Tục thờ thành hoàng ở nước ta là do ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa
truyền sang từ thời Đường. Sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã nhanh
chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa
dạng và phong phú. Tuy nhiên giữa Thành Hoàng Việt Nam và Thành
Hoàng Trung Quốc có những điểm tương đồng và khác biệt hết sức rõ nét.
Vì vậy, muốn biết rõ hơn những điểm tương đồng và khác biệt ấy thì chúng
ta hãy cùng nhau so sánh hai Thành Hoàng trên.
9 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5036 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu thành hoàng làng trong làng xã nông thôn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Tìm hiểu thành hoàng làng trong làng
xã nông thôn Việt Nam
2
Ở làng các làng xã, nông thôn Việt Nam, Thành Hoàng là một niềm tin
thiêng liêng, một chỗ dựa tin Thần cho cộng đồng từ bao đời nay. Thờ cúng
Thành Hoàng cũng giống như Thờ cúng tổ tiên, nó mang đậm dấu ấn tâm
linh và Thể hiện quan niệm “ uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt
Nam.
Thành Hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao
quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi
giữ, bảo trợ cho cái thành.
Tục thờ thành hoàng ở nước ta là do ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa
truyền sang từ thời Đường. Sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã nhanh
chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa
dạng và phong phú. Tuy nhiên giữa Thành Hoàng Việt Nam và Thành
Hoàng Trung Quốc có những điểm tương đồng và khác biệt hết sức rõ nét.
Vì vậy, muốn biết rõ hơn những điểm tương đồng và khác biệt ấy thì chúng
ta hãy cùng nhau so sánh hai Thành Hoàng trên.
- Đầu tiên ta cùng tìm hiểu những nét tương đồng.
+Thành Hoàng xuất phát từ tín ngưỡng Đông Nam Á và có màu sắc của nho
giáo. Hình ảnh của thế giới các thần ở làng giống như hình ảnh chế độ hào
mục, không có ai nắm quyền tuyệt đối mà có một tập thể ( tứ pháp, tứ phủ,
nhiều thành phần)
+ Thành Hoàng của Trung Quốc và Việt Nam đều thờ nhân thần và nhiên
thần (có công) và đều có thần tích để ban sắc phong.
3
+ Có Thành Hoàng chung cho cả nước
Ví dụ: ở Trung Quốc có thần Thủy Dung trong Bát Lạp
Ở Việt Nam : thờ thần Thánh Gióng, thần Tản Viên…
+ Thành Hoàng là nơi bảo vệ cho thủ đô cho dân chúng trong thủ đô ấy,
đồng thời nơi đây cũng diễn các hoạt động lễ hội và cúng bái bái Thành
Hoàng
+ Nội dung lễ tiết cúng bái đều hướng vào mục đích đền ơn, tưởng niệm và
ước vọng cuộc sống thanh bình và no đủ ( được tổ chức rất nghiêm túc).
+ Lễ hội thường tổ chức vào mùa xuân
+ Thành Hoàng do nhà nước tôn vinh và là Thành Hoàng của một thủ phủ
+ Đình làng hay miếu đều là nơi hội tụ văn hóa ( cái gì trang trọng, uy nghi
đẹp đẽ, rộn ràng đều tập trung ở đó).
+ Nơi thờ tự Thành Hoàng đều là những nơi trang nghiêm và được xây dựng
khá quy mô
+ Thành Hoàng Trung Quốc và Thành Hoàng Việt Nam đều có quy định
ngặt nghèo bắt phải kiêng tên thành hoàng.
+ Ta thấy tên gọi và tính chất của Thành Hoàng Trung Quốc là thần bảo và
thành trì (thành có hào) và thờ gắng liền với Thành hào ở kinh đô Bá Vương
Và kinh đô các nước chư hào. Khi du nhập vào nước ta vẫn giữ nguyên tính
chất là thần bảo hộ thành hào ở các lỵ sở chình quyền cấp tỉnh.
+ Thành hoàng nước ta và Thành Hoàng Trung Quốc có hai chức năng: Hộ
Quốc, Tí Dân. Chức năng Tí Dân là chức năng cơ bản vì đó mà dân làng thờ.
Thần làng phò hộ nhân dân, đem lại mưa thuận gió hoà, xã hội an ninh,
không bị tai ương thiên tai địch hoạ. Chức năng Hộ Quốc là đại diện cho vua
cai trị các thần làng và nhân dân, tham gia chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập
dân tộc. Tiêu chuẩn phong thành hoàng trước tiên là “Hộ Quốc” tức bảo vệ
quốc gia, là chống xâm lăng và bảo vệ ngôi vua.
4
- Điểm khác biệt giữa thờ Thành Hoàng Việt Nam và Thành Hoàng
Trung Quốc.
Thành Hoàng Trung Quốc :
+ Thời gian ra đời
Danh từ Thành Hoàng là của
Trung Quốc dùng vào thế kỷ VI
thứ V trước công nguyên (vào thời
nhà Chu)
+Nguồn gốc xuất thân:
Thành Hoàng Trung Quốc phải là
nam giới vì khí dương là biểu
trưng cho sức mạnh của muôn loài,
muôn vật có xuất thân huyền bí.
Người Trung Quốc thờ Thành
Hoàng có nguồn gốc tuyệt đại là
lực lượng “ nhiên thần” đó là
những vị thần đất cai quản khu vực
mà họ sống. Những lực lượng này
là siêu nhiên chứ không phải là
nguồn gốc là những người đã từng
sống ( vô nhân xưng).
Thành Hoàng Việt Nam :
Xuất hiện vào thời nhà Đường
năm 833. Thái thú nhà Đường là
Ly Nguyên Gia đã phong cho Tô
Lịch làm Thành Hoàng.
Ở Việt Nam không phân biệt nam
hay nữ, có nguồn gốc chủ yếu là
“nhân thần” đó là những vị anh
hùng dân tộc có công chống giặc
ngoại xâm
Ví dụ: Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn, Hai Bà Trưng, Trần
Hưng Đạo, Nguyễn Trãi…
Những “ nhân thần” có công
chống giặc cướp bảo vệ làng xã
hoặc những người có công trong
việc truyền bá các ngành nghề cho
dân làng.
Ví dụ: Trạng Bùng Khắc Hoang…
5
Ngoài ra còn thờ những người
được dân làng nể sợ nghĩ rằng khi
họ chết đi sẽ chi phối đến cộng
đồng.
Ví dụ: Đình thờ những người vốn
là trẻ con, ăn mày, ăn trộm…
+ Quan niệm về thờ Thành
Hoàng
Theo quan niệm của ngươi Trung
Quốc Thành Hoàng là khiến trúc
bảo vệ đất đai ( thành trì) Thành
Hoàng của Trung Quốc từ xưa đến
nay đều gắn với thành trì. Thành
Hoặc ông tổ của một họ nào đó có
công khai phá đất đai lập nên làng
xã đó
Bên cạnh đó làng Việt Nam cũng
thờ “nhiên thần” nhưng không
giống Trung Quốc . Các nhiên thần
Việt Nam chủ yếu là các hiện
tượng tự nhiên
Ví dụ: thần mây, mưa, sấm, chớp,
gió…
Thần cây và núi, các vị trí đặc biệt
đối với phát triển kinh tế ( Mẫu
Liễu Hạnh).
Thờ Thành Hoàng là người nước
ngoài (các vị tổ sư)
Ví dụ: làng Bát Tràng (Gia Lâm)
thờ Kỷ Tín.
Thờ Thành Hoàng sống
Ví dụ: Hoàng Cao Khải, Nguyễn
Đình Cận
6
Thành Hoàng Việt Nam là vị thần
che chở cho một làng. Định đoạt
phúc họa cho làng đó.
Hoàng là vị thần bảo vệ, chứ
không phải là thần trừng phạt hay
phá hoại.
+ Cơ sở thờ tự
Chủ yếu thờ trong những ngôi nhà
đất (nhà trệt- tức nhà có nền đất),
được gọi là miếu có quy mô lớn.
Có thành hào bao quanh.
+ Địa bàn phân bố
Chỉ có những nơi thành trị. Thành
Hoàng Trung Quốc chủ yếu thờ ở
cấp huyện. Tỉnh, kinh đô
+ Cảnh quan kiến trúc
Ở Trung Quốc thời xưa, nơi đóng
Đô, nơi đặt thủ phủ, các đơn vị
Hành chính đều có thành bao bọc.
Bên ngoài thành là hào sâu, nhằm
Tằng cường bảo vệ thành, gọi là
Hoàng. Miếu Thành Hoàng được
Chủ yếu được thờ ở đình làng , thờ
ở nghè làng và miếu, đặt trên đất
làng ấp không có thành hào bao
quanh, mà chỉ có lũy tre làng che
chở, (có nguồn gốc từ những ngôi
nhà sàn người việt). Điều này thể
hiện những ngôi đình cổ nhất nước
ta đều có cấu trúc nhà sàn.
Ví dụ: Đình ở Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Hà Tây và đặc biệt ở đình
Đình Bảng ( Bắc Ninh).
Ở nước ta ngoài thờ ở cấp huyện
thì đình làng phân bố ở nông thôn,
nơi ngự trị kết cấu làng, xã, bản.
7
Sân đình nào cũng rộng, thường có
giếng nước, có cây cổ thụ, phần
lớn là cây đa.
Nơi tọa lạc của đình là nơi quang
đảng, rộng rãi nhưng có cây cối
um tùm gần núi đồi, sông biển.
Xây dựng theo kiểu “ thượng
uyển” của vua chúa thời xưa.
+Khái niệm về Thành Hoàng :
Là thần làm chủ một thành và thể
chế này do triều đình đặc ra.
+Thành hoàng Hán là vị thần bảo
hộ một ngôi thành giúp cho quan
binh đồn trú chống kẻ địch tấn
công chiếm thành. Kẻ địch thường
là nông dân khởi nghĩa, như vậy
thành hoàng bảo vệ vua chống
nhân dân.
Hoặc là nơi trung tâm của làng,
thuận đường nối với các giáp các
ngõ, các thôn.
+Là thần che chở cho một làng có
thể xuất phát từ chữ “m làng” của
người miền núi như Trần Ngọc
Thêm đã nói. Được vua phong
thượng đẳng thần, trung dẳng thần
và hạ đẳng thần. Còn thành hoàng
Việt Nam là vị thần làng vốn do
dân làng suy tôn, vì có công với
làng, về sau triều đình phong kiến
lợi dụng uy tín của thần làng mà
phong một vị làm thành hoàng đại
diện cho vua cai quản các thần và
dân chúng trong làng.
8
+Về tên gọi: điểm khác biệt đáng chú ý nhất là tên gọi Thành Hoàng. Thần
làng ấp Việt Nam không phải là thần bảo vệ thành hào của làng ấp ( làng ấp
Việt Nam không hề có thành hào bảo vệ) mà thần hộ mệnh hay thần phúc,
bảo hộ sinh mệnh, đem lại hạnh phúc cho mỗi cộng đồng người làng ấp.
Thần làng người Việt Nam là một vị thần được dân thờ từ trước, sau đó
được vua phong tước với chức danh Thành Hoàng. Như vậy, vị thần bảo hộ
làng khoác lên tín ngưỡng Trung Quốc, hay nói một cách khác, thần bảo hộ
làng về mặt văn hóa đã bị Hoa hóa mang chức danh thành hoàng. Chính vì
thế nên Thành Hoàng Trung Quốc chuyển sang Việt Nam lại trở thành
Thành Hoàng làng.
Thành Hoàng làng và Thành Hoàng Trung Quốc khác nhau ở điểm rất rõ đó
là:
- thứ nhất: Thành Hoàng làng Việt Nam không có thành và hào cần
bảo vệ
- thứ hai: Thành Hoàng Việt Nam không vô nhân xưng, mà thần được
thờ đều có nhân xưng cụ thể: Bà Trưng, Bà Triệu… các tổ nghề thủ
công cũng đều có tên
- thứ ba: Thành Hoàng Việt Nam không hề do vua ban xuống mà Vua
chỉ phong tước cho thần làng ấp, đã được dân thờ cúng từ trước.
Và một điều quan trọng là thần làng Việt Nam phải gọi là thần Thành Hoàng
làng mới đúng. Với mô hình văn hóa Việt Nam là nhà- làng- nước, thì trong
tín ngưỡng thờ thần cũng thể hiện rất rõ mô hình đó.
- Do ảnh hưởng của Phật Giáo, đạo giáo nên ta thấy một số làng thường suy
tôn Thành Hoàng làng là thánh, một kiểu như phật, chúa chứ không phải
thần như sắc phong của triều đình.
9
Vậy từ những vấn đề phân tích trên tuy chưa phản ánh hết được việc thờ
cúng Thành Hoàng Việt Nam và Thành Hoàng Trung Quốc, nhưng đã giúp
chúng ta phần nào hình dung được quá trình hình thành, phát triển, cũng như
cách thức thờ cúng Thành Hoàng ở mỗi quốc gia. Mặc dù Thành Hoàng Việt
Nam ra đời sau và ít nhiều mang ảnh hưởng của tín ngưỡng Trung Hoa
nhưng nó vẫn giữ được những nét khác biệt đáng kể, mang đậm bản sắc văn
hóa bản địa. Chính vì thế dù trãi qua bao năm tháng thì việc thờ cúng Thành
Hoàng vẫn còn tồn tại và phát triển đến ngày nay. Đây là một giá trị truyền
thống không thể bị lãng quên.