Tiểu luận Tình hình kinh tế năm 2012

Kết thúc năm 2011 đầy khó khăn của nền kinh tế, những tín hiệu tích cực vĩ mô cũng những chính sách điều hành cứng rắn của Chính phủ trong nhiệm kỳ mới đang mở ra kỳ vọng sáng sủa hơn cho năm 2012. Tuy nhiên bước vào năm 2012, do tiếp tục chịu hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công kéo dài ở khu vực Châu Âu nên kinh tế thế giới diễn biến không thuận. Tăng trưởng của hầu hết các nền kinh tế phát triển và đang phát triển đạt mức thấp. Thị trường việc làm bị thu hẹp, thất nghiệp gia tăng. Ở trong nước, những vấn đề bất ổn tồn tại nhiều năm qua trong nội tại nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để, thiên tai dịch bệnh liên tiếp xảy ra, cùng với bối cảnh bất lợi của tình hình thế giới đã ảnh hưởng mạnh đến sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư. Lạm phát, lãi suất ở mức cao. Sản xuất có dấu hiệu suy giảm trong một vài tháng đầu năm do tiêu thụ hàng hóa chậm, hàng tồn kho tăng. Vốn huy động thiếu cùng với thị trường tiêu thụ giảm sút gây sức ép cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

docx20 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3047 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình kinh tế năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN TÌNH HÌNH KINH TẾ NĂM 2012 MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………......….01 NỘI DUNG Tăng trưởng kinh tế……………………………………………….….........04 Tập trung kiềm chế lạm phát khá thành công……………………….……..07 Ổn định kinh tế vĩ mô……………………………………………………...09 Khó khăn và thách thức……………………………………………………12 Nhiệm vụ và giải pháp..................................................................................14 KẾT LUẬN ………………………………………………………………..17 Tài liệu tham khảo……………………………………………………………..18 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Kết thúc năm 2011 đầy khó khăn của nền kinh tế, những tín hiệu tích cực vĩ mô cũng những chính sách điều hành cứng rắn của Chính phủ trong nhiệm kỳ mới đang mở ra kỳ vọng sáng sủa hơn cho năm 2012. Tuy nhiên bước vào năm 2012, do tiếp tục chịu hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công kéo dài ở khu vực Châu Âu nên kinh tế thế giới diễn biến không thuận. Tăng trưởng của hầu hết các nền kinh tế phát triển và đang phát triển đạt mức thấp. Thị trường việc làm bị thu hẹp, thất nghiệp gia tăng. Ở trong nước, những vấn đề bất ổn tồn tại nhiều năm qua trong nội tại nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để, thiên tai dịch bệnh liên tiếp xảy ra, cùng với bối cảnh bất lợi của tình hình thế giới đã ảnh hưởng mạnh đến sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư. Lạm phát, lãi suất ở mức cao. Sản xuất có dấu hiệu suy giảm trong một vài tháng đầu năm do tiêu thụ hàng hóa chậm, hàng tồn kho tăng. Vốn huy động thiếu cùng với thị trường tiêu thụ giảm sút gây sức ép cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. II. NỘI DUNG Đối với Việt Nam, nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng một cách hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kết quả thực hiện trong 9 tháng đầu năm 2012 được thể hiện ở một số điểm dưới đây: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) - lạm phát đã giảm mạnh so với năm 2011 (đặc biệt trong hai tháng 6 và 7 có mức tăng trưởng âm). So với tháng 12 năm 2011. chỉ số CPI 9 tháng đầu năm 2012 tăng khoảng 5%. ● Tỷ giá hối đoái ít thay đổi. ● Thị trường vàng không ổn định, tăng giảm bất thường. ● Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm. ● Cán cân thanh toán quốc tế trong 9 tháng ước thặng dư khoảng8 tỷ USD. Lao động, việc làm trong 9 tháng đầu năm 2012 ước giải quyết được khoảng 1.165 nghìn lao động, tăng khoảng 3,3% so với cùng kỳ năm 2011 và đạt 72,8% kế hoạch năm 2012. Số doanh nghiệp mới thành lập trong khoảng 10 tháng đầu năm 2012 đạt hơn 46.000 doanh nghiệp (giảm khoảng 12% so với cùng kỳ năm 2011. Số doanh nghiệp đã giải thể và dừng hoạt động trong 9 tháng đầu năm 2012 là hơn 35.483 doanh nghiệp (tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2011). Thu NSNN tính đến 15 tháng 8 năm 2012 đạt 418 nghìn tỷ đồng (56,5% dự toán, tăng 1,7% so cùng kỳ 2011) Chi NSNN tính đến 15 tháng 8 năm 2012 đạt 534 nghìn tỷ đồng (59,1% dự toán tăng 18,6% so cùng kỳ 2011). Tổng đầu tư xã hội ước 9 tháng đầu năm 2012 đạt 708,6 nghì tỷ đồng, bằng 35,2% GDP và tăng 8,6% so cùng kỳ năm 2011. Xuất khẩu 9 tháng 2012 ước đạt 82 tỷ USD (tăng 16,4% so cùng kỳ năm 2011). Nhập khẩu ước đạt 82,5 tỷ USD (tăng 5% so cùng kỳ năm 2011). Như vậy nhập siêu khoảng 0,5 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong 8 tháng đầu năm 2012 đạt 8,5 tỷ USD, bằng 66,1% cùng kỳ năm 2011. Đầu tư trực tiếp thực hiện 8 tháng đầu năm 2012 đạt 7,28 tỷ USD, bằng 99,7% cùng kỳ năm 2011. Như vậy, so với mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6 - 6,5% thì năm 2012 sẽ là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam không đạt kế hoạch như đã dự kiến. Từ đó, có thể tạm nhận xét rằng các chính sách kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô về cơ bản có phát huy tác dụng, mức lạm phát đã giảm và kinh tế vĩ mô giữ được ở mức khá ổn định trong tầm ngắn hạn. Mức lạm phát cả năm có nhiều khả năng kiềm chế được ở mức một chữ số. Tuy nhiên, nếu xét về trung và dài hạn thì kinh tế vĩ mô vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn. Tăng trưởng kinh tế Kịch bản tốt: Tăng trưởng vượt 6% khó khả thi với tình hình kinh tế thế giới khả quan, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam dự báo tăng từ 12-13%; trong khi kim ngạch nhập khẩu dự báo tăng 13-14%; tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu đạt khoảng 11-12% vào năm 2012, tăng so với tỷ lệ 9,9% năm 2011. Khi nền kinh tế toàn cầu duy trì được mức tăng trưởng, nguồn vốn đầu tư FDI vào Việt Nam được dự báo duy trì ở mức tương đương năm 2011. Vốn FDI dự kiến chiếm khoảng 23% tổng mức đầu tư toàn xã hội, tương đương khoảng 230 nghìn tỷ đồng. Tổng hợp các yếu tố cấu phần GDP như tiêu dùng nội địa, xuất nhập khẩu và đầu tư, với giả định các nhân tố khác không đổi, tính toán cho thấy với tổng mức đầu tư toàn xã hội tương đương 33,5-33,9% GDP (mức kế hoạch đã được phê chuẩn), tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2012 có thể đạt từ 6-6,3% nếu hiệu suất đầu tư của nền kinh tế có sự cải thiện đáng kể. Nhưng, nếu không có sự thay đổi về công nghệ để tăng năng suất, hiệu quả thì cần tăng tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh từ 35,2% năm 2011 lên khoảng 43% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2012 và giảm tỷ lệ đầu tư khu vực kinh tế nhà nước từ mức 38,9% năm 2011 xuống còn 34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội vào năm 2012. Với tốc độ tăng trưởng GDP từ 6-6,3%, lạm phát duy trì ở mức 8-10% và mức bội chi ngân sách được thông qua cho năm 2012 ở mức 4,8% GDP, theo tính toán của Ủy ban giám sát, nợ công Việt Nam năm 2012 dự kiến đạt mức 58,2-58,8% GDP. Tuy nhiên ở kịch bản này, Ủy ban cho rằng để điều chỉnh cơ cấu đầu tư như trên là một thách thức rất lớn. Bởi vì, muốn tăng tỷ trọng đầu tư của khu vực dân doanh từ 35,2% của năm 2011 lên tới 43% tổng đầu tư toàn xã hội vào năm 2012, theo tính toán của Ủy ban, tăng trưởng tín dụng cần đạt trên 25%, cao hơn nhiều so với định mức tăng tín dụng từ 15-17% để kiểm soát lạm phát từ 8-10%. Trong khi đó, để đảm bảo an sinh xã hội và tạo nền tảng cho phát triển kinh tế giai đoạn sau, Việt Nam cần tiếp tục quan tâm đầu tư hạ tầng cơ sở, đặc biệt là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, khó có thể giảm tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước từ mức 38,9% tổng đầu tư toàn xã hội năm 2011 xuống chỉ còn 34% ngay trong năm 2012. “Như vậy, trong điều kiện chưa tạo được bước đột phá công nghệ để tăng năng suất, hiệu quả đầu tư kinh tế, nếu năm 2012 không có những đột biến về nguồn huy động vốn sản xuất thông qua nguồn huy động vốn khác ngoài kênh tín dụng, vốn tự có của doanh nghiệp, thì khả năng tăng trưởng GDP ở mức 6-6,3% là khó đạt được”, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia nhìn nhận. Kịch bản trung bình: GDP có thể đạt 5,6-5,9% Ở kịch bản trung bình, giả định đặt ra là sản lượng nền kinh tế thế giới giảm khoảng 1%, tác động làm thương mại giảm khoảng 3-4% so với 2011. Ảnh hưởng đến Việt Nam, tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu của nước ta năm 2012 dự báo đạt tương ứng 8-9% và 7-8%, tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu theo đó đạt từ 7-8%. Trong khi đó, lượng vốn FDI vào Việt Nam dự báo sẽ thấp hơn một chút so với kịch bản tốt, chỉ chiếm từ 22-22,5% tổng mức đầu tư toàn xã hội. Với các dữ liệu trên, cùng với cơ cấu đầu tư khu vực kinh tế nhà nước chiếm 36,5-37% và khu vực kinh tế dân doanh chiếm 40,5-41% tổng đầu tư toàn xã hội, mô hình tính toán của Ủy ban cho thấy, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2012 có thể đạt từ 5,6-5,9%. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho rằng, đây là kịch bản có nhiều khả năng nhất và các chỉ số, các cân đối cũng mang tính khả thi nhất, mức tăng trưởng này cũng tương đối sát với mức sản lượng tiềm năng hiện tại của Việt Nam. Ở kịch bản này, mô hình tính toán về quan hệ giữa tăng trưởng GDP, bội chi ngân sách và nợ công cho kết quả, với tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 4,8% GDP, nợ công Việt Nam năm 2012 sẽ đạt mức 58,8-59,2% GDP. Kịch bản xấu: GDP chỉ đạt 5,2-5,5% Nhưng với giả định trường hợp xấu nhất, kinh tế thế giới có khả năng rơi vào suy thoái và đạt mức tăng trưởng dưới 2,4%; thương mại thế giới tăng ở mức dưới 3% về khối lượng và giá cả có thể giảm sâu hơn mức dự báo 10% sẽ tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế cũng như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Dự báo trong trường hợp này, kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng từ 5-6% so với năm 2011. Trong khi đó, nhiều khả năng Chính phủ sẽ phải điều chỉnh chính sách vĩ mô, tăng đầu tư nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, ngăn chặn suy giảm kinh tế, nên chính sách có phần nới lỏng hơn và vì thế nhập khẩu dự báo tăng 5-6%. Theo đó, tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu vào khoảng 9-10%. Tương ứng, nguồn vốn FDI vào Việt Nam ước chỉ đạt khoảng 10 tỷ USD, tương đương khoảng 21% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Lạm phát dự báo sẽ giảm còn 8-9%. Ủy ban lưu ý rằng, trường hợp suy thoái kinh tế thế giới như tại kịch bản xấu có thể khuếch đại những điểm yếu nội tại của nền kinh tế Việt Nam, như đã từng xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008-2009. Bởi vậy, khi khả năng này xảy ra, Ủy ban khuyến nghị cần duy trì đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế, giảm tối đa những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Theo đó, tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước cần duy trì ở mức tương đương năm 2011 (38,9%), tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh khoảng 40%. Với những giả định như trên, tính toán của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho thấy, tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đạt từ 5,2-5,5%. Kết hợp với tỷ lệ bội chi ngân sách của năm 2012 được thông qua là 4,8% GDP, tính toán của cho thấy, nợ công của Việt Nam năm 2012 sẽ ở mức 59,8-60,4% GDP. → Tuy nhiên thực tế: Tăng trưởng GDP của Việt Nam từ đầu năm tới nay hạ xuống mức 4,31% dù mức tăng trưởng của quý hai tăng được 4,5%. Tập trung kiềm chế lạm phát khá thành công Trước bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm khó lường, Việt Nam đã có chủ trương đúng về tập trung cho mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát,   bảo đảm tăng trưởng hợp lý. Tiếp nối Nghị quyết 11/2011/NQ-CP, điều này đã được khẳng định trong các Nghị quyết gần đây của các Hội nghị Trung ương Đảng (nhất là Hội nghị Trung ương 3 về cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng), Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2012 và các Nghị quyết 01/2012/NQ-CP của Chính phủ về điều hành năm 2012, Nghị quyết 13/2012/NQ-CP về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường,…. Nhờ các chủ trương đúng đắn này và sự chỉ đạo kiên quyết của lãnh đạo cấp cao, lãnh đạo ở các ngành, các địa phương, tình trạng lạm phát biểu hiện bằng chỉ số CPI các tháng liên tiếp đã được điều chỉnh khá thành công, CPI hằng tháng giảm khá đều đặn từ 8/2011, dù có tác động tăng lên chút ít trong dịp Tết. Lạm phát tháng 8/2011 (so cùng kỳ) là 23% đã giảm dần, đến đến 8/2012 chỉ còn 5%. Dù còn có thể có những biến động trong hệ thống tiền tệ, giá nông sản và xăng dầu, cũng như giá các dịch vụ y tế, giáo dục,… nhưng theo dự báo sơ bộ của Bộ KHĐT tiến hành cuối tháng 8/2012, chỉ số CPI tháng 12/2012 so tháng 12/2011 sẽ tăng khoảng 7-8%, và CPI trung bình năm tăng 8,5-9,5% so cùng kỳ. Một nguyên nhân cốt lõi của thành quả này là đã kiên trì chính sách điều tiết hợp lý việc cung tiền, bảo đảm cân đối khá tốt hàng - tiền. Nếu so sánh với việc tăng đầu tư ngân sách khi kích cầu năm 2009 và tín dụng dễ dãi năm 2010 mới thấy việc kiểm soát tiền tệ năm 2012 là có kết quả, sau chuyển biến bước đầu năm 2011. Tuy kiểm soát chặt chẽ, nhưng khi cần thiết, NHNN đã bơm tiền ra thị trường bằng các kênh chính thức (như hỗ trợ đầu tư, kể cả trái phiếu chính phủ, hỗ trợ thanh khoản cho NHTM qua thị trường mở) và sau đó bằng các biện pháp nghiệp vụ đã thu tiền về nhanh, làm cho việc cung tiền (qua M2) danh nghĩa thì lớn, nhưng tiền (nhất là tiền mặt) thực sự tham gia lưu thông thì ít hơn, bằng các biện pháp nghiệp vụ thu tiền, nhất là tiền mặt về NHNN. Thêm vào đó, năm 2012 việc cung tiền qua kênh tín dụng cũng bị giảm mạnh do hoạt động tín dụng rất khó khăn, sau 8 tháng mới tăng chưa tới 2%, do cả phía doanh nghiệp (tiêu thụ khó, tồn kho cao) và thanh khoản của ngân hàng thương mại (do nợ xấu). Có thể nói, trong các nguyên nhân giảm lạm phát năm 2012, khoảng phân nửa là do yếu tố điều hành tiền tệ khá tốt, làm ổn định cung-cầu hàng-tiền. Thêm vào đó, trong các tháng đầu năm, giá xăng dầu và năng lượng nói chung trên thế giới khá ổn định. Thậm chí giảm cũng như giá lương thực thực phẩm trong nước cũng được bảo đảm ở mức ổn định đã tác động tích cực đến quá trình giảm lạm phát khá ngoạn mục. Tuy nhiên, trong các tháng cuối năm, nhất là quý IV có nhiều tác động mới theo hướng tăng CPI trở lại,do tác động tăng giá xăng dầu, các dịch vụ y tế, giáo dục,… và cả giá lương thực thực phẩm. Riêng về các giải pháp “bình ổn giá” của một số địa phương chưa có nhiều tác dụng thực tế, tuy tác động tâm lý tốt. Việc giảm lạm phát ở nước ta cũng được hỗ trợ thêm bởi yếu tố giá đầu vào của các giá nhập khẩu cũng thấp trong điều kiện ổn định tỷ giá, nên đã làm cho việc giảm CPI được thực hiện thành công hơn mong đợi. Tuy nhiên, sự lo lắng về đình đốn cũng phần nào làm giảm niềm hưng phấn do thành công không chế lạm phát rất đáng khích lệ này. Nhìn chung, sự chỉ đạo tiếp tục thận trọng theo hướng kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô là hoàn toàn đúng, phải kiên trì trong tầm trung dài hạn. Dự báo cả năm sẽ tăng khoảng 7-8%, nếu không có biến động lớn (còn theop bình quân năm thì có thể tăng 8-9%). Tuy mức tăng giá này còn khá cao so với các nước trong khu vực và thế giới, CPI chỉ khoảng 2-4%, nhưng CPI nước ta so với năm 2011 và mấy năm gần đây, đã đạt được sự khống chế đáng khích lệ. Cần cảnh báo rằng nếu lỏng tay, như bung tiền ra quá mạnh hay điều hành giá cả thị trường, nhất là lương thực thực phẩm theo vùng và giá xăng dầu bất cẩn, có thể làm lạm phát tăng cao năm 2013 và các năm sau ! Tuy nhiên, nếu tính lạm phát mà bỏ yếu tố xăng dầu và lương thực, thực phẩm để xét lạm phát “lõi” core inflation thì vẫn còn cao. Do đó, cần rất kiên trì kiềm chế lạm phát, mà không thể hài lòng và buông lơi. Nhìn lại thành tựu khống chế lạm phát 20 năm qua, nhất là sau năm 1994, có thể thấy các thành tựu kiềm chế lạm phát năm 2012 đạt được là rất đáng trân trọng. Tác động của yếu tố điều hành theo đúng chính sách chủ Đảng và Nhà nước là quan trọng Ổn định kinh tế vĩ mô Trong các chỉ tiêu về ổn định kinh tế vĩ mô có thể ghi nhận về các chỉ tiêu tài chính, ngân hàng, tỷ giá, dự trữ ngoại tệ, đôi khi cũng tính cả xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế, việc làm… Tăng trưởng kinh tế: Cùng với thành tựu kiềm chế lạm phát, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khoảng 5% trong khó khăn của kinh tế thế giới. Đó là mức tăng trưởng phù hợp, thích ứng với khó khăn chung, cả xuất nhập khẩu, sức cạnh tranh kém,… Trong điều kiện kinh tế thế giới suy giảm mạnh đó, kinh tế nước ta tuy có giảm sút, nhưng vẫn ở mức trên 5%, cao hơn mức thấp nhất năm 1999 (có 4,77%) khi bị tác động bởi khủng hoảng tài chính Đông Á. Do đó, khi cả nền kinh tế toàn cầu tiếp tục có sụt giảm và khởi sắc yếu ớt, thì những bất cẩn trong điều hành hệ thống tài chính tiền tệ và an sinh xã hội, có thể làm cho bất ổn kinh tế vĩ mô dẫn tới một số xáo trộn khó lường về chính trị xã hội Tỷ giá hối đoái đã giữ được ổn định, sau thời kỳ điều chỉnh mạnh mấy năm gần đây, thậm chí điều chỉnh quá mạnh đầu năm 2012 Kiều hối tăng mạnh (lên tới 6 tỷ$ trong 6 tháng) đã tạo điều kiện để NHNN mua được số lượng lớn ngoại tệ và sau đó bằng các biện pháp nghiệp vụ ngân hàng đã thu hồi tiền mặt trong lưu thông. Trên cơ sở ổn định tỷ giá, Việt Nam cũng đã tăng cường được nguồn dự trữ ngoại tệ một cách ổn định: riêng năm 2012 mua ngoại tệ tăng thêm gần 10 tỷ$. Dự trữ ngoại tệ đạt mức cao nhất trong ba năm qua.A Xuất khẩu cũng được tăng trưởng mạnh. Năm 2012 dù kinh tế khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vẫn đạt khá trên 15% và xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu cao như máy tính, điện thoại, v.v…. Trong xuất khẩu, do duy trì được sự tham gia vững chắc trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu nên các doanh nghiệp FDI đã có mức tăng trưởng xuất khẩu (ngoài dầu khí) khá cao, đạt 35-40%. Tuy nhiên, do doanh nghiệp nội địa chưa tham gia nhiều vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là những yếu kém cực lớn, ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng 2012 cần chăm chút trong trung và dài hạn. Điều này chỉ có thể giải quyết được nếu gắn các vấn đề kinh tế trước mắt với tái cấu trúc trong trung và dài hạn, nhất là ba khâu quan trọng nhất đã nêu như doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công và hệ thống tài chính tiền tệ… để hướng đến nền kinh tế hiệu quả hơn theo hướng xây dựng mô hình tăng trưởng mới. Các cân đối vĩ mô cũng được giữ vững ổn định. Tỷ lệ tích lũy vẫn được giữ ở mức hợp lý, với việc giảm sút đầu tư công và đầu tư FDI nên tỷ trọng đầu tư/GDP đã giảm một cách có hệ thống. Hệ quả là tốc độ tăng trưởng đã được giảm bớt hợp lý khoảng 5%, khi các nền kinh tế trên thế giới đều giảm sút mạnh. Cán cân vãng lại được cải thiện do dòng kiều hối vẫn ổn định khi thâm hụt thương mại giảm mạnh. Cán cân tổng thể dương 7-8 tỷ$ nhờ luồn vốn bên ngoài vẫn tiếp tục thực dương 7-8 tỷ$. Tuy nhiên, những biến động gần đây trong xử lý các gian lận trong hoạt động mờ ám thôn tính ngân hàng, phản ánh tiình trạng quản lý yếu kém hiện nay chưa được cải thiện. Đặc biệt, cân đối ngân sách năm 2012 gặp khó khăn lớn khi thu nhập từ xuất nhập khẩu, thuế cho hoạt động sản xuất kinh doanh và thu từ đất… đều giảm mạnh. Lũy kế đến 15/8/2012 tổng thu NSNN ước đạt 418 nghìn tỷ VND bằng 56,5% dự toán; tổng chi NSNN ước đạt 534 nghìn tỷ VND, bằng 59,1% dự toán. Tình trạng vượt thu như nhiều năm chắc sẽ không đáng kể, gây khó khăn cho cân đối ngân sách ở trung ương và nhiều địa phương. Tái cơ cấu kinh tế đã có sự khởi động, tập trung vào ba khâu trọng điểm là đầu tư, ngân hàng tiền tệ và DNNN:Tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công theo hướng giảm dần tỷ trọng và nâng cao hiệu quả. Việc triển khai chỉ thị 1792 về đầu tư công đã được tiếp nối bằng việc Quốc Hội ra Nghị quyết về ổn định vốn trái phiếu chính phủ đến hết 2015 và triển khai ý đồ xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn, đã làm cho các ngành, các địa phương phải chú ý nhiều sử dụng nguồn vốn đầu tư công cho hiệu quả. Đã chú trong hơn việc xây dựng cơ chế, chính sách định hướng và tạo điều kiện đẩy mạnh xã hội hóa trong hoạt động đầu tư, nhất là hình thức hợp tác công tư PPP. Các ngành và địa phương cũng chú trọng nâng cao chất lượng và tính bền vững của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cơ cấu lại thị trường tài chính mà trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các tổ chức tài chính đã được triển khai bước đầu, nhưng còn lúng túng khi các NHTM có tình trạng nợ xấu rất lớn. Trên thực tế, nói nhiều hơn làm trong việc “nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng tính an toàn hệ thống; giảm dần việc huy động đầu tư chủ yếu từ tín dụng ngân hàng; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn đầu tư từ thị trường vốn; kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các công ty chứng khoán”, thậm chí việc “tăng hiệu quả hoạt động bảo hiểm; kiểm soát hiệu quả các quỹ đầu tư, ngăn chặn hiện tượng đầu cơ lũng đoạn thị trường” còn có nhiều yếu kém, thậm chí bị một số Nhóm lũng đoạn đã bị cơ quan công an bắt tạm giam. Tuy nhiên, vụ Nguyễn Đức Kiên đang có những tác động không nhỏ, cần theo dõi sát sao (không chỉ tiền nội tệ, mà cả ngoại tệ và vàng. Trong vấn đề này, cả phương án dự bị rủi ro và công tác tuyên truyền đều rất cần thiết để đảm bảo không để xẩy ra các tác động xấu không lường trước. Liên quan lĩnh vực này là tài chính công cũng cần được soi xét kỹ khi cả chi tiêu thường xuyên và đầu tư còn nhiều khoản để ngoài ngân sách và chia cắt giữa trung ương và địa phương, làm khó cho việc tái cơ cấu đầu tư công, đi cùng với tiết kiệm chi thường xuyên. Toàn bộ đầu tư công và cả chi tiêu công nói chung còn chưa được kiểm soát như cần thiết, đang làm cho mất cân đối ngân sách thêm nghiêm trọng khi sản xuất đình đốn. Nếu không cắt giảm chi tiêu công thì sẽ làm mất cân đối thêm nghiêm trọng. Cơ cấu lại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó trọng tâm là các t