Việt Nam đang đi trên con đường trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa, chăm lo đến đời sống của toàn bộ người dân trong quốc gia là yêu cầu tất yếu để đi lên xã hội chủ nghĩa. Người dân muốn được sống ấm no, muốn được đáp ứng đủ nhu cầu về mặt lợi ích, muốn được Nhà nước và xã hội quan tâm chia sẻ khi không thể lao động được, khi sức khỏe bị gián đoạn. Để làm được điều đó, BHXH đóng một vai trò quan trọng nhằm gắn kết người lao động đến với những nhu cầu thiết yếu đó, và đáp ứng được những đòi hỏi của người sử dụng lao động, qua đó người sử dụng dùng BHXH để đáp ứng lại tất cả những yêu cầu của người lao động.
Hệ thống BHXH bảo vệ lợi ích cho mọi người lao động khi bị ốm đau thai sản, tai nạn lao động, khi về già hoặc khi gặp phải những rủi ro biến cố trong cuộc sống. Thông qua việc hình thành một quỹ BHXH do các bên tham gia BHXH đóng góp và sự hỗ trợ của Nhà nước. Đây là hoạt động không kinh doanh, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. BHXH như là một chiếc phao cứu sinh nhằm giúp cho người lao động và doanh nghiệp trải qua khó khăn trong giai đoạn khó khăn.
Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế hiện tại. Nợ BHXH đang là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Nó tác động xấu tới những chính sách tốt đẹp mà Nhà nước và Chính phủ đang áp dụng.
Nhà nước không thể giải quyết cho người lao động nhận các trợ cấp khi xảy ra rủi ro. Còn người lao động thì khi không nhận được trợ cấp đó, với sự hiểu biết ít ỏi, họ có nhiều suy nghĩ theo hướng không tích cực đến các chính sách từ Đảng và Nhà nước.
Việc Nợ BHXH gần như xảy ra trên toàn bộ các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp lớn đến doanh nghiệp nhỏ. Việc nợ BHXH của các doanh nghiệp này gần như là điều bất khả kháng. Các doanh nghiệp hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc xoay chuyển dòng tiền nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Vì thế, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc kinh doanh, việc đóng BHXH sẽ gây gánh nặng tới nguồn vốn kinh doanh của họ.Việc các doanh nghiệp trốn nộp, chậm nộp diễn ra gần như suốt quá trình kinh doanh.
Chính việc nợ BHXH từ các doanh nghiệp đã gây một hậu quả trực tiếp tới người lao động. Người lao động không hề biết các doanh nghiệp, nơi họ đang làm việc đang trực tiếp sử dụng tiền họ đóng BHXH để làm vốn kinh doanh, đến khi gặp tai nạn nghề nghiệp, mất việc . họ cần tới sự giúp đỡ của BHXH thì họ hầu như không nhận được sự trợ cấp nào từ BHXH với lý do nhận được từ cơ quan BHXH là doanh nghiệp họ đang làm việc đang nợ BHXH.
32 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4678 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tình hình nợ bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011 - 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Tình hình nợ bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012
Nguyễn Hoàng Giang
Lớp: K15QNH5
MSSV: 152523844MỤC LỤC
BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Trụ sở: Số 1A Trần Quý Cáp, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, Tp. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3834773 / 0511.3834774 - Fax: 0511.3834773
Email: bhxhdanang@vnn.vn
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang đi trên con đường trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa, chăm lo đến đời sống của toàn bộ người dân trong quốc gia là yêu cầu tất yếu để đi lên xã hội chủ nghĩa. Người dân muốn được sống ấm no, muốn được đáp ứng đủ nhu cầu về mặt lợi ích, muốn được Nhà nước và xã hội quan tâm chia sẻ khi không thể lao động được, khi sức khỏe bị gián đoạn... Để làm được điều đó, BHXH đóng một vai trò quan trọng nhằm gắn kết người lao động đến với những nhu cầu thiết yếu đó, và đáp ứng được những đòi hỏi của người sử dụng lao động, qua đó người sử dụng dùng BHXH để đáp ứng lại tất cả những yêu cầu của người lao động.
Hệ thống BHXH bảo vệ lợi ích cho mọi người lao động khi bị ốm đau thai sản, tai nạn lao động, khi về già hoặc khi gặp phải những rủi ro biến cố trong cuộc sống. Thông qua việc hình thành một quỹ BHXH do các bên tham gia BHXH đóng góp và sự hỗ trợ của Nhà nước. Đây là hoạt động không kinh doanh, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. BHXH như là một chiếc phao cứu sinh nhằm giúp cho người lao động và doanh nghiệp trải qua khó khăn trong giai đoạn khó khăn.
Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế hiện tại. Nợ BHXH đang là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Nó tác động xấu tới những chính sách tốt đẹp mà Nhà nước và Chính phủ đang áp dụng.
Nhà nước không thể giải quyết cho người lao động nhận các trợ cấp khi xảy ra rủi ro. Còn người lao động thì khi không nhận được trợ cấp đó, với sự hiểu biết ít ỏi, họ có nhiều suy nghĩ theo hướng không tích cực đến các chính sách từ Đảng và Nhà nước.
Việc Nợ BHXH gần như xảy ra trên toàn bộ các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp lớn đến doanh nghiệp nhỏ. Việc nợ BHXH của các doanh nghiệp này gần như là điều bất khả kháng. Các doanh nghiệp hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc xoay chuyển dòng tiền nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Vì thế, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc kinh doanh, việc đóng BHXH sẽ gây gánh nặng tới nguồn vốn kinh doanh của họ.Việc các doanh nghiệp trốn nộp, chậm nộp diễn ra gần như suốt quá trình kinh doanh.
Chính việc nợ BHXH từ các doanh nghiệp đã gây một hậu quả trực tiếp tới người lao động. Người lao động không hề biết các doanh nghiệp, nơi họ đang làm việc đang trực tiếp sử dụng tiền họ đóng BHXH để làm vốn kinh doanh, đến khi gặp tai nạn nghề nghiệp, mất việc…. họ cần tới sự giúp đỡ của BHXH thì họ hầu như không nhận được sự trợ cấp nào từ BHXH với lý do nhận được từ cơ quan BHXH là doanh nghiệp họ đang làm việc đang nợ BHXH.
Quỹ BHXH là một nội dung quan trọng trong chính sách BHXH. Nó vừa mang tính kinh tế xã hội vừa mang tính chính trị nhằm ổn định cho một đất nước phát triển. Hơn nữa, chính sách BHXH ở nước ta được phát triển toàn diện, có đủ tài chính để chi trả các chế độ ngắn hạn và dài hạn cho người tham gia BHXH trong và ngoài thời gian lao động để từ đó chính sách BHXH thực sự đi vào đời sống của người dân Việt Nam thì nâng cao vai trò của công tác thu tạo quỹ BHXH từ người lao động và người sử dụng lao động là một trong những vấn đề hết sức cần thiết trong thời gian hiện nay.
Với vai trò là một sinh viên trong ngành Tài chính- Ngân hàng đang học tập và sinh sống trên địa bàn Đà Nẵng. Chính bản than cũng đang sử dụng BHYT nên hơn ai hết em hiểu tầm quan trọng của BHXH đối với cuộc sống của những người có thu nhập thấp.
Xuất phát từ nguyện vọng bản than và tiểu luận môn “Các tổ chức tài chính”. Em đã chọn đề tài : “Tình hình nợ BHXH của các doanh nghiệp tại Đà Nẵng từ 2011-2012” nhằm tìm ra nguyên nhân nợ BHXH cũng như tình hình nợ BHXH trên địa bàn thành phố. Qua đó đề xuất giải pháp nhằm giúp tháo gở khó khăn.
Trong quá trình làm tiểu luận, thật khó để có thể tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ GVHD để tiểu luận em được hoàn thiện và thiết thực hơn.
Chương 1: Lý luận chung về BHXH và công tác thu BHXH.
Tổng quan về BHXH
Quỹ BHXH
Khái niệm về quỹ BHXH
Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH: NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước bù thiếu nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo cho hoạt động của hệ thống BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước, được nhà nước bảo hộ và bù thiếu. Được quản lý theo cơ chế cân bằng thu chi do đó quỹ BHXH không đơn thuần ở trạng thái tĩnh mà luôn có sự biến động theo chiều hướng tăng lên hoặc thâm hụt.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, do rủi ro được dàn trải cho số đông người tham gia. Đồng thời quỹ này cũng góp phần giảm chi ngân sách cho Nhà nước, khi có biến cố xã hội xảy ra như thiên tai, hạn hán, dịch bệnh, quỹ BHXH cũng là một khoản không nhỏ giúp Nhà nước thay cho cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội…
Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất của BHXH nhằm đảm bảo ổn định, duy trì cuộc sống cho NLĐ đóng góp phần ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH: Ngoài việc trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi cho các khoản chi phí quản lý như: tiền lương cho cán bộ làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao TSCĐ, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác.
Vai trò của BHXH
Ở bất kỳ hoàn cảnh, thời điểm nào, rủi ro luôn luôn rình rập, đe dọa cuộc sống của mỗi người gây gánh nặng cho cộng đồng và xã hội, rủi ro phát sinh hoàn toàn ngẫu nhiên và bất ngờ không lường trước được nhưng xét trên bình diện xã hội thì rủi ro là một tất yếu, không thể tránh được. Để phòng ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của rủi ro đối với con người và xã hội là nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của BHXH.
BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho người lao động và gia đình
BHXH tạo được tâm lý an tâm, tin tưởng. Khi đã tham gia BHXH góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân lao động.
Nguồn hình thành quỹ
Người sử dụng lao động: sự đóng góp này không những thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ đồng thời con thể hiện lợi ích của NSDLĐ bởi đóng góp một phần BHXH cho NLĐ, NSDLĐ sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ của mình đồng thời cũng giảm bớt được những tranh chấp. Thông thường phần đóng góp này được xác định dựa trên quỹ lương của đơn vị, doanh nghiệp.
Người lao động: Người lao động tham gia đóng góp cho mình để bảo hiểm cho chính bản than mình. Khoản đóng góp vào quỹ BHXH chính là khoản để dành dụm, tiết kiệm cho về sau bằng cách là hưởng lương hưu hoặc được hưởng trợ cấp khi gặp rủi ro xảy ra.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm: Quỹ BHXH được nhà nước bảo hộ và đóng góp khi quỹ bị thâm hụt không đủ khả năng để chi trả cho các chế độ xã hội. Nhằm mục đích đảm bảo cho các hoạt động xã hội diễn ra được đều đặn, ổn định. Nguồn thu từ sự hỗ trợ Ngân sách Nhà nước đôi khi là khá lớn, sự hỗ trợ này là rất cần thiết và quan trọng.
Các nguồn khác: như sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước.Lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi, khoản tiền thu nộp phạt từ các đơn vị chậm đóng BHXH…
Phương thức đóng góp
Căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp.
Căn cứ và mức thu nhập cơ bản của NLĐ được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp
Mức đóng góp BHXH
NLĐ đóng 5% lương tháng cho BHXH, 1% lương tháng cho BHYT
NSDLĐ đóng 15% quỹ lương tháng cho BHXH và 2% quỹ lương tháng cho BHYT.
Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH
Sự cần thiết khách quan của BHXH
Con người ai cũng phải trải qua các giai đoạn phát triển của đời người đó là sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chết. Đó là vòng: sinh, lão, bệnh, tử và ước muốn của con người là có được cuộc sống an sinh, hạnh phúc. Nhưng quy luật của tạo hóa là sinh ra lớn lên và già yếu mà ai cũng phải trải qua. Đi theo cùng quy luật đó là những rủi ro, ốm đau, bệnh tật, hoạn nạn có thể đến bất cứ lúc nào trong cuộc sống. Chính những lúc ốm đau, bệnh tật họ rất cần sự quan tâm, chia sẻ từ chính doanh nghiệp họ công tác, từ xã hội và từ những người xung quanh họ.
Xuất phát từ thực tế khách quan trên người ta hiểu rằng toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ chặt chẽ đó được quan niệm là Bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với người lao động.
Hệ thống BHXH ngày càng được mở rộng đã góp phần to lớn vào việc ổn định cuộc sống cho người lao động, góp phần ổn định kinh tế chính trị xã hội của đất nước.
Sự tồn tại của hệ thống BHXH là một sự cần thiết tất yếu khách quan cho quốc gia, cho mọi người Lao động và người Sử dụng lao động.
Đối với người lao động
Góp phần bảo đảm cuộc sống ổn định cho người lao động và gia đình họ khi gặp bất trắc rủi ro : tai nạn lao động, ốm đau, thai sản… ảnh hưởng tới sức lao động gây ảnh hưởng tới thu nhập của NLĐ
BHXH làm cho NLĐ ngày càng yêu nghề hơn, gắn bó với công việc, sống có trách nhiệm hơn với bản than, gia đình bạn bè và cộng đồng hơn.
Là sợi dây ràng buộc, kích thích họ hăng hái tham gia sản xuất hơn, gắn kết NSDLĐ với NLĐ lại gần nhau hơn.
BHXH còn bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho NLĐ góp phần tái sản xuất sức lao động cho NLĐ nhanh chóng trở lại làm việc tạo ra sản phẩm mới cho doanh nghiệp và xã hội, đảm bảo thu nhập cho bản thân NLĐ.
Đối với người sử dụng lao động
BHXH góp phần điều hòa hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ.
Tạo ra môi trường làm việc ổn định cho người lao động, taọ sự ổn định cho người sử dụng lao động trong công tác quản lý
Đối với nhà nước
Giúp cho Ngân sách Nhà nước giảm chi đến mức tối thiểu nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho NLĐ và gia đình họ được phát triển an toàn hơn.
BHXH góp phần giữ vững an ninh, chính trị trong nước ổn định trật tự an toàn cho xã hội: BHXH điều hòa, hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ đồng thời tạo ra môi trường làm việc thuận lợi, ổn định cho người lao động
BHXH có vai trò quan trọng trong việc tăng thu, giảm chi cho Ngân sách Nhà nước:
BHXH làm tăng thu cho ngân sách nhà nước
BHXH giúp cho nhà nước thực hiện được các công trình xây dựng trọng điểm của quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế.
Đối với xã hội :
Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, NSDLĐ và NLĐ, mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rui ro. Mối quan hệ thể hiện tính nhân sinh, nhân văn sâu sắc của BHXH.
BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, BHXH tạo cho những người bất hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những biến cố xã hội, hòa nhập vào cộng đồng. BHXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người, không phân biệt chính kiến, tôn giáo chủng tộc, vị thế xã hội đồng thời giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái, cuộc sống công bằng, bình yên.
BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tương thân tương ái của cộng đồng.
BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội. BHXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng.
Đối với nền kinh tế thị trường
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, xảy ra sự phân tầng giữa các tầng lớp trong xã hội. Tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các ngành nghề khác nhau trong xã hội. Nếu xảy ra rủi ro cho những người có kinh tế khó khăn, BHXH góp phần ổn định đời sống cho họ và gia đình.
Đối với các doanh nghiệp, khi những người lao động không may gặp rủi ro thì đã được chuyển giao cho cơ quan BHXH chi trả. Nhờ vậy tình hình tài chính của các doanh nghiệp được ổn định hơn.
Khi tham gia BHXH cho người lao động sẽ phát huy tinh thần trách nhiệm, gắn bó tận tình của người lao động trong các doanh nghiệp làm cho mối quan hệ thị trường lao động trở nên lành mạnh hơn, thị trường sức lao động vận động theo hướng tích cực góp phần xây dựng và có kế hoạch phát triển chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường.
Quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp được tích tụ tập trung rất lớn, phần quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư cho nền kinh tế tạo ra sự tăng trưởng, phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người lao động
BHXH vừa tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát triển nhưng mặt khác tạo ra sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư thông qua hệ thống phân phối lại thu nhập góp phần lành mạnh hóa thị trường lao động.
Bản chất và chức năng của BHXH
Bản chất của BHXH
BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập cho người lao động, là sản phẩm tất yếu khách quan của xã hội phát triển, là hình thức dịch vụ công để quản lý và đáp úng nhu cầu chia sẻ các rủi ro trong cộng đồng, là quyền cơ bản của người lao động.
BHXH vừa để thực hiện các mục đích xã hội, vừa để thực hiện các mục đích kinh tế trong mỗi cộng đồng, quốc gia. Trong đó, mục đích kinh tế và mục đích xã hội luôn được thực hiện đồng thời, đan xen lẫn nhau, là hai mặt không thể tách rời.
Về phương diện xã hội: BHXH là sự chia sẻ rủi ro, bảo đảm an toàn xã hội
Về phương diện kinh tế: BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm, thông qua việc hình thành quỹ tiền tệ chung.
Về phương diện chính trị, pháp lý: khi được nhà nước điều chỉnh bằng pháp luật, BHXH đã trở thành quyền cơ bản của người lao động, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Đồng thời đó cũng là trách nhiệm của NLĐ và NSDLĐ phải tham gia BHXH.
BHXH đóng vai trò như một vị cứu tinh cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro làm giảm thu nhập trong cuộc sống, nhu cầu về BHXH thuộc về nhu cầu tự nhiên của con người. Xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các tiêu chuẩn hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu.
Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể nói là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản…
Phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích lại.
Chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của chính sách về kinh tế xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quản lý đất nước của quốc gia.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
Mục tiêu này đã được tổ chức lao động Quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo như cầu sinh sống thiết yếu của họ
Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật
Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu dân cư và nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Chức năng của BHXH
Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản của BHXH, quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. BHXH xã hội hóa cao hơn hẳn các loại hình BHXH khác đồng thời cũng thể hiện tính công bằng xã hội cao.
BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân tăng năng suất lao động xã hội góp phần tăng mối quan hệ tốt đẹp và gắn bó lợi ích giữa NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
BHXH thực hiện chức năng điều hòa lợi ích giữa ba bên: NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước đồng thời làm giảm bớt mâu thuẫn xã hội, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, xã hội.
BHXH còn thực hiện chức năng giám đốc bởi BHXH tiến hành kiểm tra, giám sát việc tham gia thực hiện chính sách BHXH của NLĐ, NSDLĐ theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần ổn định xã hội.
BHXH góp phần thu hút lao động, hình thành và phát triển thị trường lao động, gắn bó các lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và các lợi ích xã hội.
Đối tương và đối tượng tham gia BHXH
Đối tượng BHXH
BHXH là một hệ thống bảo đảm khoản thu nhập bị giảm hoặc mất do giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm vì có các nguyên nhân như ốm đau tai nạn, tuổi già.
Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là phần thu nhập của NLĐ bị biến động hoặc giảm, mất đi do gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên, bất ngờ xảy ra.
Đối tượng của BHXH không chỉ là các khoản thu nhập theo lương mà bao gồm các khoản thu nhập khác ngoài lương như: thưởng, phụ cấp… cho NLĐ có nhu cầu đóng góp them để được hưởng mức trợ cấp BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH
Đối tượng tham gia của BHXH là NLĐ và NSDLĐ.
Họ là những người trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản % nhất định so với tiền lương của NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tùy theo điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó trong xã hội.
Đối tượng tham gia của BHXH bao gồm:
Đối tượng bắt buộc tham gia BHXH: là NLĐ và NSDLĐ phải tham gia BHXH một cách bắt buộc với mức đóng góp và mức hưởng BHXH theo quy định của luật BHXH.
Đối tượng tự nguyện tham gia BHXH: áp dụng cả với người làm công ăn lương và NLĐ không làm công ăn lương. Thường là do sự đóng góp của NLĐ cùng với sự giúp đỡ của ngân sách Nhà nước.
Các chế độ BHXH
Theo công ước 102 kí kết tại Giơnevơ tháng 6 năm 1952 của Tổ chức Lao động quốc tế với sự tham gia của rất nhiều quốc gia đã xác định rõ, BHXH bao gồm các chế độ sau:
Chế độ chăm sóc y tế
Chế độ trợ cấp ốm đau
Chế độ trợ cấp thất nghiệp
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Chế độ trợ cấp tuổi già
Chế độ trợ cấp gia đình
Chế độ trợ cấp sinh đẻ
Chế độ trợ cấp khi tàn phế
Chế độ trợ cấp cho người còn sống
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tùy điều kiện kinh tế chính trị xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 trong 9 chế độ. Trong đó có ít nhất một trong năm chế độ 3,4,5,8,9.
Ở Việt Nam, theo nghị định 218/CP ra đời ngày 27/12/1961 quy định chế độ BHXH ở Việt Nam gồm 6 loại chế độ trợ cấp: ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN, hưu trí, mất sức lao động, chế độ tử tuất. Khi nền kinh tế phát triển và chuyển đổi theo cơ chế thị trường, điều kiện kinh tế đã thay đổi thì Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 thống nhất bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động. Do BHYT Việt Nam sát nhập với BHXH Việt Nam do đó, hiện nay ở Việt Nam thực hiện 6 chế độ BHXH. Các chế độ đó là:
Ốm đau
Thai sản
TNLĐ- BNN
Hưu trí
Chế độ tử tuất
Chế độ chăm sóc y tế.
Công tác thu
Vai trò của công tác thu
Là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất
Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH có vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách BHXH.
Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ kiểm tra số lượng người tham gia BHXH biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc.
Hoạt động của công tác thu BHXH hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai
Quy trình thu BHXH
NLĐ, NSDLĐ đăng ký tham gia BHXH.
Cơ quan BHXH định kỳ sẽ tiến hành thu BHXH từ người tham gia BHXH hoặc từ các đơn vị, cơ quan.
Quá trình thu được tiến hành theo hai cách sau:
Trường hợp 1: Cán bộ BHXH phải trực tiếp thu BHXH từ người tham gia BHXH. Họ sẽ xuống tận cơ sở, nơi người lao động làm việc để trực tiếp thu.
Trường hợp 2: Cơ quan BHXH thu thông qua NSDLĐ hoặc thông qua đại lý thu như: Ngân hàng, bưu điện, thông qua cơ quan Thuế… Cơ quan BHXH thường mở tài khoản tại ngân hàng h