Tiểu luận Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam

Có thể nói rằng sữa có một thị trường vô cùng rộng lớn cả trên phương diện là thức uống cần thiết của con người và ở một nước có dân số đông, cấu trúc dân số trẻ như Việt Nam - với cấu trúc dân số trẻ thì lượng sữa tiêu thụ trung bình trên đầu người càng cao. Do đó Việt Nam là một thị trường sữa đầy tiềm năng. Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới, các rào cản bảo hộ cho nghành sản xuất trong nước nói chung và sữa nói riêng dần được tháo bỏ, thì thị trường sữa của Việt Nam phát triển nhanh chóng với sự tham gia của nhiều nhà sản xuất trong nước lẫn nước ngoài như Vinamilk, Dutch Lady, Mead Jonhson, Dumex, Nestlé, Abbott Cũng như các ngành khác, ngành sữa là một chuỗi các hoạt động tạo ra giá trị gia tăng từ khâu sản xuất nguyên liệu từ sữa bò đến khâu chế biến và đưa tới tay người tiêu dùng. Có thể nói thị trường sữa Việt Nam hiện nay biến động không ngừng, nổi trội hơn cả là thị trường sữa bột, cạnh tranh sữa nội sữa ngoại, giá sữa leo thang đặc biệt là sữa bột cho trẻ em. Do đó chúng em chọn đề tài: “Tình hình thị truờng sữa bột ở Việt Nam .” để phân tích biến động thị trường sữa bột ở Việt Nam về tình hình sản xuất, nhập khẩu, tình hình tiêu thụ, giá cả,đồng thời đưa ra đề xuất ổn định thị trường sữa bột cũng như đưa ra đề xuất để thúc đẩy thị trường sữa phát triển mạnh hơn.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8576 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Có thể nói rằng sữa có một thị trường vô cùng rộng lớn cả trên phương diện là thức uống cần thiết của con người và ở một nước có dân số đông, cấu trúc dân số trẻ như Việt Nam - với cấu trúc dân số trẻ thì lượng sữa tiêu thụ trung bình trên đầu người càng cao. Do đó Việt Nam là một thị trường sữa đầy tiềm năng. Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới, các rào cản bảo hộ cho nghành sản xuất trong nước nói chung và sữa nói riêng dần được tháo bỏ, thì thị trường sữa của Việt Nam phát triển nhanh chóng với sự tham gia của nhiều nhà sản xuất trong nước lẫn nước ngoài như Vinamilk, Dutch Lady, Mead Jonhson, Dumex, Nestlé, Abbott…Cũng như các ngành khác, ngành sữa là một chuỗi các hoạt động tạo ra giá trị gia tăng từ khâu sản xuất nguyên liệu từ sữa bò đến khâu chế biến và đưa tới tay người tiêu dùng. Có thể nói thị trường sữa Việt Nam hiện nay biến động không ngừng, nổi trội hơn cả là thị trường sữa bột, cạnh tranh sữa nội sữa ngoại, giá sữa leo thang… đặc biệt là sữa bột cho trẻ em. Do đó chúng em chọn đề tài: “Tình hình thị truờng sữa bột ở Việt Nam….” để phân tích biến động thị trường sữa bột ở Việt Nam về tình hình sản xuất, nhập khẩu, tình hình tiêu thụ, giá cả,đồng thời đưa ra đề xuất ổn định thị trường sữa bột cũng như đưa ra đề xuất để thúc đẩy thị trường sữa phát triển mạnh hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Bá Thọ đã hướng dẫn chúng em rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng bài viết này vẫn không thể tránh khỏi thiếu sót. Chúng em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy và bạn đọc. Tập thể nhóm th ực hiện 1. Tình hình sản xuất sữa bột ở Việt Nam 1.1 Nguồn nguyên liệu trong nước Nguồn nguyên liệu trong nước phụ thuộc vào tiềm năng phát triển của ngành chăn nuôi bò sữa. Đàn bò sữa tăng trưởng 16%/năm trong giai đoạn 2001-2009, tập trung chủ yếu ở miền Nam. Miền Bắc chỉ chiếm từ 15-25% tổng số bò sữa tại Việt Nam trong giai đoạn này. Ở miền Nam, thành phố Hồ Chí Minh là vùng nuôi nhiều bò sữa nhất, với hơn 69 nghìn con vào năm 2008. Tương ứng với qui mô đàn bò, miền Nam sản xuất hơn 85% lượng sữa tươi cả nước. Trong năm 2009, sản lượng sữa cả nước là 278.190 tấn, tăng 6,11% so với năm 2008. Song nhìn chung, Việt Nam không có các điều kiện thuận lợi để chăn nuôi bò sữa, do khí hậu nhiệt đới và quĩ đất chật hẹp. Hiện nay nguồn sữa nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu để sản xuất các loại sữa đặc, sữa tươi và sữa chua, còn nguyên liệu để sản xuất sữa bột phải nhập khẩu 100%. Các sản phẩm sữa bột do các doanh nghiệp trong nước như công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk), công ty CP Dinh dưỡng Đồng Tâm (Nutifood), công ty TNHH FrieslandCampina… sản xuất đều từ nguồn sữa bột nguyên liệu nhập ngoại.  1.2 Nguồn bột sữa nguyên liệu dùng để sản xuất sữa bột Với bột sữa nguyên liệu để sản xuất sữa bột, đặc biệt là sữa bột cho trẻ em hiện nay trên thế giới không phải nước nào cũng có thể sản xuất được. Theo các chuyên gia ngành sữa thì hầu hết các doanh nghiệp sản xuất sữa bột trong nước cũng như các công ty sữa trên thế giới có sản xuất các sản phẩm sữa bột đều sản xuất các sản phẩm sữa bột trên cơ sở sữa bột nền có pha trộn thêm các vi chất có lợi cho sức khỏe và sự phát triển của cơ thể như chất béo, DHA, ARA, v.v. Hiện nay chỉ một số ít các nước trên thế giới có thể sản xuất được sữa bột nền có chất lượng, trong đó có thể kể đến là Mỹ, Úc, New Zealand, Hà Lan. Các doanh nghiệp sản xuất sữa bột của Việt Nam cũng chủ yếu nhập khẩu sữa bột nền từ các quốc gia này để làm nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm sữa bột của mình 1.3 Các hãng sản xuất sữa bột ở Việt Nam 1.3.1 Tình hình cạnh tranh của các hãng Hiện nay, trên thị trường có 7 công ty chính trong ngành sữa: công ty sữa Việt Nam - Vinamilk, công ty Dutch Lady, công ty TNHH Nestlé Việt Nam, công ty Nutifood, công ty cổ phần Hanoi Milk, công ty Đại Tân Việt, công ty F&N, và nhiều công ty có quy mô sản xuất nhỏ khác. Các công này hiện nay đang cạnh tranh khá gay gắt trên phần lớn các phân khúc của thị trường. Đối với các sản phẩm sữa bột và bột dinh dưỡng, Vinamilk chiếm khoảng 35% thị phần nội địa. Khoảng 65% thị phần còn lại thuộc sản phẩm của các công ty: Dutch Lady, Nestlé, Abbott (Hoa Kỳ), Anlene (New Zealand), Dumex, Mead Johnson (Hoa Kỳ) (Nguồn: Công bố thông tin công ty Vinamilk - công ty BSC) Biểu đồ 1: Thị phần của một số hãng sữa lớn trên thị trường sữa bột[2] ([2]Thông tin ghi nhận từ các buổi trao đổi, phỏng vấn với đại diện công ty Vinamilk do Cục QLCT tổ chức.) 1.3.2 Chất lượng sữa bột 1.3.2 Chất lượng sữa bột hiện nay 1.3.2 Chất luợng sữa bột hiện nay Trên thực tế theo như lời một đại điện của Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm – bộ Y tế thì việc kiểm tra chất lượng thực sự, nhất là thành phần và hàm lượng các chất dinh dưỡng trong sữa có đúng như đã ghi ngoài bao bì hay không là rất khó khăn. Việc này cần phải có những phòng phân tích, hóa nghiệm lớn với đầu tư trang thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại mà hiện nay ở Việt Nam chúng ta chưa có điều kiện đáp ứng.Theo đánh giá của một số chuyên gia ngành sữa và các chuyên gia dinh dưỡng, chất lượng của các sản phẩm sữa bột nguyên hộp nhập khẩu và chất lượng sản phẩm sữa bột thành phẩm do một số doanh nghiệp lớn trong nước sản xuất về cơ bản là tương đương. Các sản phẩm này đều đáp ứng được yêu cầu về các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ. Chỉ có một số sản phẩm sữa bột do các doanh nghiệp hay các cơ sở tư nhân nhỏ lẻ đóng gói thì chưa đạt yêu cầu về chất lượng. Đã có thực trạng sản xuất sữa chứa melanine và thành phần và hàm lượng các chất dinh dưỡng thực tế có trong các sản phẩm sữa bột do các doanh nghiệp, cơ sở này sản xuất nhỏ hơn so với hàm lượng đã ghi trên nhãn mác và không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đối với người tiêu dùng, cần chú ý đến sự toàn vẹn của bao bì, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm để mua và sử dụng đúng cách. Không nên mua đồ hộp đã phồng, rộp, rách, nhãn ghi không rõ ràng. Người tiêu dùng nên chọn sữa của các công ty có uy tín; được cơ quan y tế cấp phép; thành phần dinh dưỡng của sữa cân đối còn hạn sử dụng. Ngoài ra, khi mua sữa, người tiêu dùng nên lấy hóa đơn mua hàng để khi có sự cố xảy ra có thể dễ dàng bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình. Và một điều nữa đối với những gia đình có trẻ nhỏ: Sữa mẹ luôn là nguồn thực phẩm an toàn nhất, nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ, không một sản phẩm sữa dù theo công thức nào chứa đầy đủ chất dinh dưỡng cân bằng và hợp lý, dễ dung nạp, chứa đầy đủ chất kháng thể giúp trẻ trong 6 tháng đầu đời phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ như sữa mẹ. 2. Tình hình nhập khẩu sữa bột ở Việt Nam 2.1 Các nuớc xuất khẩu sữa nhiều nhất vào Việt Nam Theo Cục Quản lý cạnh tranh, sữa là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất và khá ổn định trong các ngành thực phẩm tại Việt Nam, với tỷ suất lợi nhuận tương đối cao. So với các nước trong khu vực, các đánh giá của một số công ty nghiên cứu thị trường cũng cho biết thị trường sữa bột Việt Nam tăng trưởng khá cao so với nhiều nước. Đánh giá về tiềm năng phát triển của thị trường, Cục Quản lý cạnh tranh cho rằng, với tốc độ tăng dân số khoảng 1,2%/năm; GDP tăng trưởng 6-8%/năm và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn ở mức cao, khoảng 20%,… là những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của thị trường sữa. Tuy nhiên, thị trường với tổng giá trị đạt khoảng 10 nghìn tỷ đồng này hiện đang phụ thuộc khá lớn vào nguồn nhập khẩu. Rất nhiều hãng sữa lớn trên thế giới đã hiện diện trên thị trường với chủng loại sản phẩm phong phú, đa dạng về mẫu mã, giá cả và… chất lượng. Nguồn gốc nhập khẩu chủ yếu từ Tây Ban Nha, New Zealand, Ireland, Đan Mạch, Hà Lan, Phần Lan, Thái Lan, Malaysia,… Biểu đồ : Kim ngạch nhập khẩu của top 10 nước xuất khẩu sữa nhiều nhất vào Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2009[]. ([]Báo cáo ngành hàng Việt Nam: Sữa – quý 1/2009, Trung tâm thông tin phát triển NNNT – Bộ NN&PTNT.)  Ngoài ra, còn một lượng hàng khác được nhập qua đường hàng xách tay; một số doanh nghiệp cũng nhập khẩu một vài tấn đến vài container đển phân phối bán lẻ, tuy nhiên những dạng kinh doanh này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trên thị trường. 2.2 Kim ngạch nhập khẩu sữa bột những năm gần đây. Kim ngạch nhập khẩu sữa bột liên tục tăng mạnh trong những năm qua. Năm 2007 có gần 7,1 triệu hộp sữa bột được nhập khẩu vào Viêt Nam, đến năm 2008 đã tăng thêm 17,3% lên trên 8,3 triệu hộp…"Với sản phẩm sữa bột, chúng ta đang thua ngay chính trên sân nhà của mình. Các nhà chế biến sữa trong nước vẫn phải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập từ nước ngoài, vì ngành chăn nuôi bò sữa nội địa vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu chế biến. Lượng sữa tươi trong nước chỉ thỏa mãn 22-25% nhu cầu nguyên liệu", ông Trịnh Quý Phổ, Tổng thư ký Hiệp hội sữa Việt Nam phát biểu. Theo khảo sát, ngay cả khi sữa nội và ngoài cùng sản xuất từ một nguồn sữa nguyên liệu nhập khẩu, sản phẩm mác ngoại có xu hướng được người tiêu dùng ưa chuộng hơn. Giai đoạn từ 2007-2009, sản lượng bán nhóm sữa bột của các hãng sữa nước ngoài chiếm xấp xỉ 70% toàn thị trường. Theo danh sách các doanh nghiệp nhập khẩu sữa do Tổng cục Hải quan thống kê, năm 2008-2009 có tới 230 doanh nghiệp nhập khẩu sữa bột thành phẩm và sữa bột nguyên liệu. Mặc dù vậy, trên thực tế chỉ một lượng nhỏ các doanh nghiệp có thể tồn tại và mở rộng thị phần. Riêng Abbott, Dutch Lady, Vinamilk, Dumex, Mead Johnson, Nestlé đã chiếm gần 90% thị phần sữa bột tại Việt Nam. 1. Thống kê tình hình tiêu thụ sữa bột trong những năm qua. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cả nước nói chung,trong thời gian qua,đời sống nhân dân đã được cải thiện nhiều,theo đó mức sống cũng như thu nhập bình quân đầu người (GDP) tăng lên,con người ngày càng yêu cầu cao hơn về sức khỏe và dịch vụ. Điều này góp phần không ít trong việc thúc đẩy thị trường sữa Việt Nam nói chung và thị trường sữa bột Việt Nam nói riêng tăng trưởng mạnh , với tốc độ bình quân khoảng 9,06%/năm từ năm 2000 đến nay. Theo số liệu thống kê của Agroinfo (Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp - nông thôn), tiêu thụ các sản phẩm sữa tính theo đầu nguời tại Việt Nam tăng khá mạnh trong giai đoạn 1997 - 2009, trong đó, đứng đầu là sữa bột nguyên kem, với tốc độ tăng trưởng bình quân 28,9%/năm (từ 0,07 kg/người (1997) lên 4 kg/người (2009). Tiếp đến là sữa không béo, với mức tăng bình quân xấp xỉ 20%/năm. Cũng theo Vntrades (trang web điện tử về thị trường việt nam) cho biết, tiêu thụ sữa bình quân đầu người tăng bình quân 7,85%/năm, từ 8,09 lít/người năm 2000 lên 14,81 lít/người năm 2008. Giai đoạn 2000 - 2005, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người đã tăng gấp rưỡi. Năm 2008, chỉ tiêu này tiếp tục tăng khoảng 21,2% so với 2005. Quy mô tiêu thụ sữa của toàn thị trường vào năm này đạt 1.257 triệu lít quy đổi. Dưới đây là bảng số liệu thống kê tình hình tiêu thụ sữa trong những năm qua. Bảng 1: Mức tiêu thụ sữa trong nước trong một số năm . (Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan)  2000  2005  2006  2007  2008   Dân số(triệu người)  77,63  82 ,16  83,08  83,99  84,90   Tiêu thụ sữa nội địa(triệu lít quy đổi)  628  1004  1056  1239  1257   Tiêu thụ bình quân(lít/người/năm)  8,09  12,22  12,71  14,75  14,81   Bảng 2: Mức tăng trưởng tiêu thụ sữa trong nước các giai đoạn. (Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan) Tốc độ tăng trưởng  Đơn vị  2001-2005  2006-2008  2001-2008   Tiêu thụ sữa  %/năm  9,84  7,79  9,06   Tiêu thụ sữa bình quân đầu người  %/năm  8,60  6,62  7,85   2. Sự tăng truởng về tiêu thụ sữa bột ở nuớc ta Về thực trạng,thị trường Việt Nam với hơn 86 triệu dân, tỉ lệ tăng hàng năm vào khoảng 1,2% nên mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu trẻ em ra đời, với mức tăng GDP khoảng 6-8% mỗi năm và tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở mức tương đối cao (khoảng 20%) sẽ là một thị trường tiềm năng để phát triển ngành sữa bột. Hơn nữa, như thống kê ở bảng trên, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam năm 2008 là 14,8 lít/người/năm,và có sự tăng trưởng khá mạnh,song chỉ so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Theo ông Phan Chí Dũng - Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ - Bộ Công thương thì,tiêu thụ sữa ở Việt Nam vẫn còn ở mức rất thấp so với các nước và vùng lãnh thổ khác trong khu vực và trên thế giới như Thuỵ Sỹ 140 lít/người/năm, Hà Lan 120 lít/người/năm,… nên nhu cầu về sữa và tiềm năng của thị trường sữa ,đặc biệt là sữa bột còn rất lớn. Hiện nay,cơ cấu tiêu dùng đang có nhiều thay đổi. Năm 2002 sữa bột chiếm khoảng 25% tổng khối lượng sữa tiêu thụ trong nước, nay chỉ còn khoảng 21%. 3. Tình hình phân bố những nơi tiêu thụ sữa ở nuớc ta Mặt khác,sữa bột hiện nay được tiêu thụ chủ yếu tại các thành phố lớn, khu vực thành thị có kinh tế phát triển, còn tại các vùng nông thôn thì rất thấp. Theo số liệu thống kê của Viện Dinh dưỡng thì người dân thành thị sử dụng lượng sữa bột bình quân hàng năm nhiều gấp 4 lần người dân nông thôn. Các vùng nông thôn càng nghèo, càng xa thì cơ hội được dùng, các sản phẩm sữa càng ít. Ngay ở các vùng nông thôn thì mức tiêu thụ sữa bột của các xã nghèo chỉ bằng một phần năm mức tiêu thụ sữa bột ở xã không nghèo. Trong tương lai khi mức thu nhập bình quân tăng lên thì mức tiêu thụ sữa cũng sẽ gia tăng cả ở khu vực thành thị và nông thôn. 4. Tình hình tiêu thụ sữa ở nuớc ta sau vụ việc phát hiện Melamine ở trong một số sản phẩm sữa bột. Điểm lại trong giai đoạn vừa qua,tình hình tiêu thụ sữa bột tại Việt Nam cũng gặp nhiều biến động. Đáng chú ý hơn cả là việc phát hiện Melamine- một loại hóa chất hữu cơ,gây hại cho sức khỏe, được thêm vào các loại sữa bột nhầm tăng thêm thể tích, vào khoảng cuối năm 2008. Phát hiện này đã khiến việc tiêu thụ sữa bột bị sụt giảm một cách đáng kể. Ngoài ra,sự biến động của giá sữa trong giai đoạn vừa qua,tăng lên rất nhiều,đặc biệt là sữa ngoại,đã ảnh hưởng không ít đến mức tiêu thụ. Hơn nữa,hiện nay,các công ty sữa ngày càng tăng cường hoạt động quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện truyền thông, với rất nhiều mẫu mã,thêm vào đó là hàng loạt các câu dẫn như :đảm bảo chất lượng,có bổ sung thêm nhiều dưỡng chất,v.v…như một phương thức để thu hút người tiêu dùng,góp phần tăng mức tiêu thụ. Như vậy,có thể thấy,để thúc đẩy tình hình tiêu thụ sữa bột ở thị trường Việt Nam tăng lên,đòi hỏi các cấp chính quyền cũng như các công ty sữa phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và có những biện pháp xử phạt thích đáng đối với các trường hợp vi phạm. Ngoài ra, cũng cần có các biện pháp ổn định thị trường,bình ổn giá cả,nắm bắt được tâm lý người tiêu dùng để có thể đáp ứng nhu cầu cũng như trấn áp tâm lý người dân khi có biến động sai lệch. Không chỉ vậy,người tiêu dùng cũng cần phải nắm bắt thông tin chính xác,không lệch lạc tâm lý trước những biến động không có cơ sở,tăng cường sử dụng hàng việt như một cách để thể hiện lòng yêu nước của mình... Có như vậy mới có thể thúc đẩy thị trường sữa bột Việt Nam phát triển mạnh hơn trong tương lai. Sự biến động giá cả trong những năm 2007-2011 Mức giá bình quân trên toàn thị trường của nhóm sản phẩm sữa bột, đặc biệt là sữa bột dành cho trẻ em liên tục tăng trong thời gian qua. 1.1 Giai đoạn 2007-2008 Năm 2007, mức giá bình quân chung của nhóm sản phẩm sữa bột trên thị trường là 155,729 triệu đồng/tấn. Năm 2008 mức giá này tăng lên 187,956 triệu đồng/tấn, tăng 20,7% so với năm 2007. Trong 8 tháng đầu năm 2008, mức giá bình quân của nhóm sản phẩm sữa bột trên thị trường là 197,065 triệu đồng/tấn, tăng 4,8% so với năm 2008 và 26,5% so với năm 2007. Như vậy chỉ sau hai năm mức giá bình quân chung của nhóm sản phẩm sữa bột đã tăng gần 30%.  Đồ thị :Đường trung bình giá của nhóm sản phẩm sữa bột trên thị trường các năm. Đại diện Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính cho biết các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa trên thị trường đã có nhiều đợt tăng giá trong các tháng từ 1 đến 7/2008. Cụ thể, Công ty TNHH 3A phân phối sữa bột của hãng Abott tăng 3 đợt, mỗi đợt bình quân khoảng 4 -7,8%. Công ty Thực phẩm dinh dưỡng Việt Nam phân phối sữa bột của hãng Dumex có 31 sản phẩm tăng từ 3 – 21% trong khi Dutch Lady Việt Nam tăng 6 – 10% cho nhóm hàng sữa bột Cô gái Hà Lan, sữa Anpha tăng 9 – 10%. 1.2 Giai đoạn 2009 Trong 6 tháng đầu năm 2009, công ty TNHH Dược phẩm 3A đã điều chỉnh giá sản phẩm tăng từ 3.500 – 24.500 đồng/ hộp và hãng sữa NamYang với thương hiệu XO tăng 10% đối với một số sản phẩm.   Theo quy định năm 2009, các hãng sữa nhập khẩu tại Việt Nam không có trách nhiệm phải giải trình các yếu tố cấu thành giá bán.Kết quả điều tra mới công bố của Bộ Tài chính, công thức tính giá bán của nhiều hãng sữa chỉ đơn giản là lấy giá nhập khẩu cộng thêm 40-45% lãi gộp. Trong khi đó, theo báo cáo của Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội năm 2009, mức chênh lệch giữa giá sữa bột nhập khẩu theo tờ khai hải quan và giá niêm yết của một số loại sữa bột lên tới 220% đến 285%. Cụ thể, loại Enfa Grow A+ của công ty Mead Johnson loại 900 g chênh lệch 242%.Loại Dugro Gold loại 800 g của công ty Dumex chênh lệch 285%.Loại Gain, Pedia Sure của công ty Abbott loại 400 g chênh lệch 220 – 246%. Thấp nhất là loại sữa Milex loại 400 g của công ty Arla Foods chênh lệch 30%  nhưng giá bán cũng cao như các loại sữa bột nhập khẩu nêu trên. Theo kết quả khảo sát của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, giá bán lẻ của sữa nhập khẩu cao hơn 46% so với giá sữa sản xuất trong nước.Cụ thể,giá sữa bột loại 400g của nhãn sữa Dielac Alpha tuỳ theo từng độ tuổi mà có mức dao động từ 58.000- 74.000 đồng/hộp và loại 900g dao động từ 137.000- 148.000 đồng/hộp. Sữa Nestle gấu loại 400g dao động từ 54.000- 65.000 đồng/hộp và loại 900g dao động từ 100.000- 120.000 đồng/hộp.Trong khi đó, với các nhãn sữa nhập ngoại thì thường có mức giá tương đương là từ 230.000 đồng/hộp và 420.000 đồng/hộp trở lên. Thực tế, qua khảo sát của Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công thương), sữa Friso bán tại Việt Nam cao hơn trung bình 50- 60%, thậm chí có cửa hàng bán cao hơn 80% so với sản phẩm cùng loại tại Malaysia. Mặc dù sữa Friso tại Malaysia là sản phẩm nhập khẩu, chịu nhiều khoản thuế, chi phí vận chuyển. Trong khi loại sữa Friso này được ngay tại nhà máy ở Hà Nam và Bình Dương, Việt Nam.   Kết quả thanh tra cuối năm 2009 của Bộ tài chính cho thấy giá sữa thường được đẩy lên gấp 2 lần giá vốn.Mức chênh lệch giữa giá bán và giá nhập khẩu C&F từ 101% đến 211%.  Ví dụ, Enfagrow 1,8 kg nhập khẩu 198.559 đồng/hộp, bán ra hơn 402.000 đồng/hộp; Enfagrow 900g nhập khẩu hơn 108.000 đồng, bán ra hơn 220.000 đồng/hộp Phân tích về cơ cấu giá sữa trong đợt kiểm tra giá sữa cuối tháng 12/2009, Đoàn thanh tra của Bộ tài chính cho rằng điều dễ nhận thấy là chi phí quảng cáo, tiếp thị đã quá cao. Điều này có nghĩa: Trong khoản tiền mua sữa thì phần phải trả cho quảng cáo là rất lớn. Như vậy là người dân đã phải chi trả quá nhiều tiền cho quảng cáo và một phần cho chất lượng sữa. 1.3 Giai đoạn 2010 Bước vào đầu năm 2010, giá sữa bột nhập khẩu đã tăng từ 7%-10%.Đấy là chưa kể thời điểm cuối năm 2009, giá sữa đã tăng từ 10%-15%. Lý giải về giá sữa tại sao tăng cao và tăng liên tục qua các năm vừa qua, đại diện các Công ty Frieland campia (Cô gái Hà Lan); Mead Johnson, Abbott Việt Nam... cho biết, đó là do VND mất giá so với USD, dẫn đến giá bán sữa bằng tiền Việt tăng.Bên cạnh đó các chi phí như điện nước, xăng dầu đều tăng giá, dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh tăng đội giá sữa lên. Tuy nhiên đây chỉ là lý giải của các doanh nghiệp sữa có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp sản xuất sữa trong nước không đồng tình với tất cả những lý do trên.Trao đổi với các cơ quan chức năng, như Cục quản lý giá, Cục quản lý cạnh tranh tất cả đều thừa nhận hiện nay  giá sữa bột nhập khẩu có mức cao bất hợp lý. Khảo sát của Bộ Công thương thông qua các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài cho thấy giá sữa bột nhập khẩu tại Việt Nam cao hơn từ 20% đến 150% so với các thị trườ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctinh hinh thi truong sua bot o Viet Nam.doc
  • docdanh muc tham khao.doc.doc
  • docMuc luc.doc.doc
Luận văn liên quan