Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và được thụ hưởng. Chính vì đây là một chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội nên Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập. Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 quy định Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH. Hơn mấy chục năm qua, các chế độ, chính sách về Bảo hiểm xã hội đã thực sự là nguồn cổ vũ, động viên đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, dũng cảm chiến đấu góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, phương thức quản lý về BHXH theo các quy định trước đó đã trở nên bất cập, bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với tiến trình đổi mới theo đường lối và các Nghị quyết của Đảng. Quỹ BHXH ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, số thu quá ít so với tổng số phải chi, vì vậy chi trả các chế độ BHXH đã trở thành gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước; Đối tượng tham gia BHXH còn bó hẹp trong lực lượng cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, chưa được mở rộng đến người lao động ở các thành phần kinh tế khác, chưa tạo được sự công bằng xã hội và làm giảm tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội đối với người lao động.
Để khắc phục những bất cập ấy, tất yếu phải đổi mới các chế độ, chính sách, phương thức quản lý BHXH cho phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cùng với việc cải cách chế độ tiền lương, các chế độ chính sách về BHXH cũng được cải cách một bước cơ bản. Sau ngày Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh tế và lực lượng vũ trang. Đồng thời cũng đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH theo quy định của Pháp luật. BHXH Việt nam được hình thành theo một hệ thống dọc từ trung ương đến tỉnh, Thành phố và quận, huyện, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1995 trên phạm vi cả nước.
Kể từ đó đến nay, ngành Bảo hiểm xã hội không ngừng xây dựng, phát triển và trường thành về mặt tổ chức cán bộ, các chế độ chính sách về Bảo hiểm xã hội ngày càng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng kịp thời với xu thế phát triển của thời đại.
. Xuất phát từ điều kiện thực tiễn Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Vịêt nam đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện thì có hiệụ lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, đối với Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Gần đây, Quốc Hội đã ban hành Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam từng bước được củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển. Công tác thu, chi, quản lý Quỹ Bảo hiểm xã hội và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo Luật định đã đi vào nề nếp tạo điều kiện thuận lợi cho những người tham gia và hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt, việc thực hiện cải cách hành chính theo qui trình giao dịch một cửa, chuyển đối tác phong làm việc hành chính sang tác phong phục vụ thực sự đã đem lại những chuyển biến tích cực trong việc giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Hệ thống BHXH đi vào hoạt động theo một thể thống nhất , các chế độ BHXH đến với người lao động tham gia và thụ hưởng thuận lợi hơn rất nhiều. Các chế độ được giải quyết nhanh hơn, kịp thời hơn giúp cho các chủ sử dụng lao động và người lao động an tâm đầu tư lao động sản xuất.
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập. Trong đó, vấn đề quan trọng là chế độ Bảo hiểm xã hội của người lao động chưa được giải quyết thoả đáng dẫn đến khiếu nại, đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội phải xem xét giải quyết.
Qua thời gian học lớp Quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên khoá 27 tại Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh nhằm để áp dụng kiến thức Quản lý nhà nước vào thực tiễn công việc hàng ngày và nâng cao kỹ năng viết của bản thân nên tôi mạnh dạn chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo hiểm xã hội với đề tài: “ Chế độ BHXH của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?”
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong thực tế sẽ giải đáp và trả lời được một số thắc mắc còn vướng phải trong việc thực hiện các chế độ chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước đang ngày một hoàn thiện sữa đổi góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh .
19 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10358 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình huống- Chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và được thụ hưởng. Chính vì đây là một chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội nên Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập. Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 quy định Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH. Hơn mấy chục năm qua, các chế độ, chính sách về Bảo hiểm xã hội đã thực sự là nguồn cổ vũ, động viên đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, dũng cảm chiến đấu góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, phương thức quản lý về BHXH theo các quy định trước đó đã trở nên bất cập, bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với tiến trình đổi mới theo đường lối và các Nghị quyết của Đảng. Quỹ BHXH ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, số thu quá ít so với tổng số phải chi, vì vậy chi trả các chế độ BHXH đã trở thành gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước; Đối tượng tham gia BHXH còn bó hẹp trong lực lượng cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, chưa được mở rộng đến người lao động ở các thành phần kinh tế khác, chưa tạo được sự công bằng xã hội và làm giảm tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội đối với người lao động.
Để khắc phục những bất cập ấy, tất yếu phải đổi mới các chế độ, chính sách, phương thức quản lý BHXH cho phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cùng với việc cải cách chế độ tiền lương, các chế độ chính sách về BHXH cũng được cải cách một bước cơ bản. Sau ngày Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh tế và lực lượng vũ trang. Đồng thời cũng đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH theo quy định của Pháp luật. BHXH Việt nam được hình thành theo một hệ thống dọc từ trung ương đến tỉnh, Thành phố và quận, huyện, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1995 trên phạm vi cả nước.
Kể từ đó đến nay, ngành Bảo hiểm xã hội không ngừng xây dựng, phát triển và trường thành về mặt tổ chức cán bộ, các chế độ chính sách về Bảo hiểm xã hội ngày càng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng kịp thời với xu thế phát triển của thời đại.
. Xuất phát từ điều kiện thực tiễn Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Vịêt nam đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện thì có hiệụ lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, đối với Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Gần đây, Quốc Hội đã ban hành Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam từng bước được củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển. Công tác thu, chi, quản lý Quỹ Bảo hiểm xã hội và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo Luật định đã đi vào nề nếp tạo điều kiện thuận lợi cho những người tham gia và hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt, việc thực hiện cải cách hành chính theo qui trình giao dịch một cửa, chuyển đối tác phong làm việc hành chính sang tác phong phục vụ thực sự đã đem lại những chuyển biến tích cực trong việc giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Hệ thống BHXH đi vào hoạt động theo một thể thống nhất , các chế độ BHXH đến với người lao động tham gia và thụ hưởng thuận lợi hơn rất nhiều. Các chế độ được giải quyết nhanh hơn, kịp thời hơn giúp cho các chủ sử dụng lao động và người lao động an tâm đầu tư lao động sản xuất.
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập. Trong đó, vấn đề quan trọng là chế độ Bảo hiểm xã hội của người lao động chưa được giải quyết thoả đáng dẫn đến khiếu nại, đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội phải xem xét giải quyết.
Qua thời gian học lớp Quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên khoá 27 tại Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh nhằm để áp dụng kiến thức Quản lý nhà nước vào thực tiễn công việc hàng ngày và nâng cao kỹ năng viết của bản thân nên tôi mạnh dạn chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo hiểm xã hội với đề tài: “ Chế độ BHXH của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?”
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong thực tế sẽ giải đáp và trả lời được một số thắc mắc còn vướng phải trong việc thực hiện các chế độ chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước đang ngày một hoàn thiện sữa đổi góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh .
Kính mong được sự giúp đỡ, hướng dẫn của các Thầy giáo, cô giáo Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh góp ý kiến bổ sung để tôi có thể hoàn thiện, nâng cao kiến thức của mình phục vụ thiết thực cho công việc chuyên môn.
PHẦN I: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG:
Một sáng mùa hè oi ả, vừa mở cửa phòng làm việc ở bộ phận giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên, tôi nhìn thấy một người đàn ông dáng vẻ mệt nhọc bước vào. Trên tay ông là quyển sổ Bảo hiểm xã hội và một số giấy tờ khác, gương mặt rất buồn, trán lấm tấm mồ hôi. Tôi liền bước lại gần để hỏi ông cần giải quyết việc gì. Từng lời chậm rãi, nghẹn ngào pha lẫn những giọt nước mắt ông kể lại toàn bộ sự việc liên quan đến việc giải quyết chế độ BHXH cho con trai ông.
Ông tên là Nguyễn Văn Tuân trú quán tại Thôn 2, xã C, huyện Cẩm xuyên, Tỉnh Hà Tĩnh có con trai tên là Nguyễn Văn Thành sinh ngày 20/7 1982 là công nhân Công ty M.
Công nhân Nguyễn Văn Thành có thời gian tham gia BHXH như sau:
Từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006 hệ số lương: 1,67 + 0,4 phụ cấp khu vực;
Từ tháng 01/2007 đến tháng 3/2008 hệ số lương: 1,67 (Từ tháng 1/2007 BHXH không đóng phụ cấp khu vực)
Theo lời kể của ông Tuân thì tháng 4/2008 anh Nguyễn Văn Thành chưa thực sự nghỉ việc tại Công ty M, đến sáng ngày 27/4/2008 (ngày chủ nhật) trên đường lên Công ty để sáng thứ 2 làm việc thì anh đã bị tai nạn giao thông và chết vào lúc 7 h sáng 27/4/2008. Gia đình đã gọi điện báo cho Công ty M và Công ty đã hỗ trợ cho gia đình một phần tiền để gia đình lo mai táng cho anh Nguyễn Văn Thành.
Đến tháng 7/2009 vừa qua, gia đình nhận được thông báo của Công ty M lên trực tiếp công ty để làm thủ tục giải quyết chế độ cho anh Thành. Ông Tuân một mình lặn lội gần 100 km lên tận Công ty con trai làm việc thì được cán bộ phòng tổ chức đưa ra một bản quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với anh Nguyễn Văn Thành của Công ty M từ ngày 02/4/2008 và hướng dẫn làm đơn đề nghị hưởng trợ cấp một lần – mẫu 14-HSB. Do không hiểu biết về chính sách BHXH nên ông quay về làm đơn xin xác nhận của chính quyền địa phương và ông đã thay mặt con trai ký tên vào mục người làm đơn. Sau đó, ông Tuân lại trở lại Công ty M để nộp đơn. Vừa qua, tháng 8/2009 gia đình ông Tuân nhận được thông báo của Công ty M mời gia đình lên nhận lại các thủ tục hồ sơ trong đó có sổ BHXH, quyết định hưởng trợ cấp một lần, bản quá trình tham gia BHXH và hướng dẫn gia đình trực tiếp cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên để nhận tiền trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Thành. Ông Tuân hỏi rằng: Tại sao con ông chết lại không được hưởng mai táng phí? Ông đề nghị cơ quan Bảo hiểm xã hội không giải quyết việc nhận trợ cấp một lần của anh Thành mà làm đơn đề nghị giải quyết cho gia đình họ được nhận chế độ tử tuất của anh Thành.
Phần thứ II: Cơ sở lý luận của tình huống:
1/ Lý luận chung:
Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Luật pháp của Nhà nước Việt nam mang tính xã hội sâu sắc và mang tính giai cấp - mang ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội là giai cấp công nhân trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; phục vụ cho lợi ích của mọi người dân trong xã hội chứ không phải lợi ích của một giai cấp riêng biệt nào.
Luật pháp của Nhà nước Việt nam là nhân tố bảo vệ sự ổn định xã hội, thể chế hoá quyền con người, quyền công dân, đảm bảo và tạo điều kiện cho những quyền đó được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Mặt khác các thành viên trong xã hội nhờ vào phương tiện pháp luật có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, đấu tranh chống mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ.
Công chức, viên chức nhà nước là những người đại diện cho Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Công cụ chính quản lý xã hội của họ là pháp luật và bản thân họ cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật, không được làm trái với những gì mà pháp luật qui định. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có không ít một số cán bộ công chức Nhà nước có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền để sách nhiễu nhân dân hoặc do trình độ chuyên môn thấp kém, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu hiểu biết về chính sách của Nhà nước dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi của người dân, thiếu công bằng xã hội, nhân dân mất lòng tin vào chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
2. Quan điểm của Đảng:
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nhà nước tham gia Bảo hiểm xã hội với tư cách là người bảo hộ cho người lao động. Sự bảo hộ của Nhà nước thể hiện ở việc đề ra chính sách Bảo hiểm xã hội tác động và điều tiết các hoạt động Bảo hiểm xã hội đưa bảo hiểm xã hội vào quỹ đạo chung của chính sách kinh tế xã hội.
Tại Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt Nam, với quan điểm chỉ đạo của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường lao động, bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm và phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. Để tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội theo luật định cần phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động, trọng tâm là thu nộp bảo hiểm xã hội, bảo đảm nguyên tắc có tham gia thì mới hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đồng thời, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là vấn đề quan trọng liên quan đến hàng triệu người lao động vì vậy cần phải có biện pháp thực hiện triệt để nhằm bảo đảm chặt chẽ, công bằng, tạo động lực thúc đẩy người lao động công tác tốt, tăng năng suất lao động.
Bên cạnh đó, cần tích cực chống các biểu hiện tiêu cực, thất thoát trong công tác bảo hiểm xã hội. Các cơ quan thanh tra phải kết luận giải quyết dứt điểm những vi phạm đã được phát hiện, đồng thời thường xuyên kiểm tra , phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm các chế độ bảo hiểm xã hội, những trường hợp nghiêm trọng phải truy tố trước pháp luật.
Để các qui định về chế độ bảo hiểm xã hội thực sự đi vào cuộc sống, để mọi người dân hiểu rõ về chế độ bảo hiểm xã hội cần coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức đúng về ý nghĩa của bảo hiểm xã hội, động viên mọi người tích cực và chủ động tham gia công tác bảo hiểm xã hội.
3. Văn bản liên quan đến đề tài:
Như phần lý luận chung đã trình bày , chính sách Bảo hiểm xã hội hiện hành là sự cải tiến , thừa kế các quy định , các văn bản pháp quy có từ mấy chục năm nay. Vì thế tính Pháp lý của tình huống được thế hiện ở các văn bản luật và dưới luật, những văn bản có tính pháp lý liên quan đến tình huống :
- Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam số 71/2006/QH 11 ngày 29 tháng 6 năm 2006;
- Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc;
- Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006.
- Quyết định 815/QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Phần thứ III: Phân tích xử lý tình huống:
1/ Phân tích sự đúng, sai của tình huống:
Qua việc nghiên cứu tình huống ta thấy đây là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ, phân tích cụ thể để tìm ra sự đúng, sai trong tình huống này.
Rõ ràng, ông Nguyễn Văn Tuân thắc mắc tại sao con ông chết vào ngày 27 tháng 4 năm 2008 (Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động ngày 02 tháng 4 năm 2008) lại không được giải quyết chế độ tử tuát là có cơ sở. Như vậy, anh Nguyễn Văn Thành thuộc đối tượng bảo lưu thời gian đóng Bảo hiểm xã hội theo qui định tại điều 57 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm 2006 và bị chết trong thời gian bảo lưu. Gia đình đã thông báo cho Công ty M và đã được Công ty hỗ trợ một phần chi phí mai táng phí. Như vậy, mọi sự việc về cái chết của anh Nguyễn Văn Thành, Công ty M biết rõ. Vậy thì tại sao người làm công tác chế độ bảo hiểm xã hội của đơn vị không hướng dẫn ông Tuân làm thủ tục đề nghị giải quyết chế độ tử tuất cho anh Thành mà lại hướng dẫn ông Tuân làm thủ tục giải quyết chế độ trợ cấp một lần? Điều đó, chứng tỏ Công ty M cũng có trách nhiệm với quyền lợi của người lao động là đã đề nghị giải quyết trợ cấp một lần nhưng do thiếu hiểu biết về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội dẫn đến việc quyền lợi của người lao động chưa được đảm bảo mà đúng ra là được giải quyết chế độ tử tuất theo qui định tại điều 63, điều 66, điều 67 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006; điều 35, điều 38, điều 39 Nghị định số 152/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006.
Vấn đề thứ hai: Ông Nguyễn Văn Tuân do không hiểu biết về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nên hoàn toàn thụ động khi được Công ty M hướng dẫn làm thủ tục đề nghị giải quyết trợ cấp một lần nên ông đã tự mình ký tên Nguyễn Văn Thành vào mục người làm đơn và đề nghị Uỷ ban nhân dân xã C ký xác nhận.
Vấn đề thứ ba: Uỷ ban nhân dân xã C cấp đơn đề nghị hưởng trợ cấp một lần cho anh Nguyễn Văn Thành vào ngày 10 tháng 8 năm 2009 (trong khi đó anh Thành đã chết) là không có cơ sở, thiếu sự kiểm tra, thiếu tinh thần phối hợp giữa bộ phận tư pháp với công an xã quản lý hộ khẩu. Vì thực tế tại các xã hiện nay công tác giao ban hàng tháng của các công an viên tại các thôn, xóm rất chặt chẽ trong đó có việc báo cáo về số người biến động do chuyển đi, chuyển đến, chết…
Vấn đề thứ tư: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh nhận hồ sơ giải quyết chế độ BHXH từ đơn vị sử dụng lao đông là Công ty M với thủ tục hồ sơ trợ cấp một lần đầy đủ theo quyết định 815 QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Vì vậy, Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh đã giải quyết cho anh Thành hưởng trợ cấp một lần là đúng với qui định tại điều 55 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006.
2/ Nguyên nhân tình huống:
Như vậy, chúng ta thấy rằng từ một sự việc hết sức đơn giản nếu như người làm công tác Bảo hiểm xã hội của Công ty M thực sự hiểu biết, nắm chắc các chế độ BHXH để hướng dẫn thân nhân người lao động ngay từ đầu thì việc giải quyết chế độ cho người lao động hết sức nhanh gọn kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội.
Đối với tình huống cụ thể này, điều quan trọng là cán bộ làm công tác tư pháp của Uỷ ban nhân dân xã C quản lý nhân khẩu, hộ khẩu chưa chặt chẽ, thiếu sự kiểm tra, cán bộ tư pháp của xã C thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện chuyên môn của mình dẫn đến sai sót nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng hiện nay công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự có hiệu quả cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế ở khả năng tiếp thu của một số người dân, kể cả một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức không có tinh thần học hỏi, không nghiên cứu cập nhật văn bản để nâng cao năng lực chuyên môn công tác của mình dẫn đến sự việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại hướng dẫn thực hiện sai. Điều đó, thực sự đã làm ảnh hưởng tới người dân cả về mặt kinh tế lẫn tinh thần.
3/ Hậu quả của tình huống:
Việc nghiên cứu hậu quả của tình huống nhằm giúp ta tránh được sự cứng nhắc, nguyên tắc, giáo điều trong việc thực hiện chế độ chính sách của người lao động. Đồng thời, lường trước được hậu quả của tình huống giúp ta có thể đề ra giải pháp hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế nhằm giải quyết đúng, kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Từ đó, có biện pháp xử lý việc chấp hành không đúng qui định trong việc thực hiện chế độ chính sách của Nhà nước và đề ra những biện pháp phù hợp tránh lạm dụng quỹ bảo hiểm xã hội.
Tôi xin nêu một số hậu quả xảy ra với tình huống trên.
- Nếu xử lý giải quyết một cách máy móc thì người lao động sẽ bị thiệt thòi về quyền lợi chính đáng do sự thiếu hiểu biết của cán bộ làm công tác chuyên môn tại đơn vị sử dụng lao động.
- Nếu không điều chỉnh kịp thời những sai sót trên thì dẫn đến người dân có thể bị mất niềm tin vào chính sách của Nhà nước ta. Trong khi đó, Đảng ta chủ trương quan tâm đúng mức tới quyền lợi của người lao động, một ưu việt của Chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.
- Có thể dẫn đến đổ lỗi trách nhiệm cho nhau.
- Nếu quá chủ quan trong việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết có thể dẫn đến việc lợi dụng lập hồ sơ để được xét hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội có lợi hơn về mặt kinh tế.
PHẦN THỨ IV: Xây dựng và lựa chọn phương án xử lý tình huống
1 . Xây dựng phương án :
Cơ sở để xây dựng phương án:
- Theo qui định điều 63 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm 2006, điều 35 nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 qui định các đối tượng sau khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng bằng 10 tháng tiền lương tối thiểu chung.
- Theo qui định tại điều 67 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm 2006, điều 39 ghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 qui định mức hưởng trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội hoặc người bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Đối chiếu với các quy định trên , trường hợp của anh Thành con ông Tuân thuộc đối tượng người lao động bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bị chết. Như vậy, tôi xin nêu ra một số phương án xử lý tình huống như sau:
a. Phương án 1 :
Từ chối việc giải quyết lại chế độ tử tuất cho anh Nguyễn Văn Thành và hướng dẫn ông Nguyễn Văn Tuân làm đơn có xác nhận của chính quyền địa phương về việc con trai ông đã chết (vì không thể làm thủ tục uỷ quyền hợp lệ) trực tiếp đến Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên để nhận trợ cấp một lần của anh Thành.
- Ưu điểm :
+ Thủ tục đơn giản, giải quyết việc nhận tiền nhanh chóng kịp thời.
+ Có cơ sở để giải quyết như vậy, vì tại thời điểm tháng 8 năm 2009 đã có đơn đề nghị hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Thành có xác nhận của chính quyền địa phương xã C.
- Nhược điểm :
+ Chưa thoả đáng về quyền lợi của người lao động cũng như thân nhân họ.
b. Phương án hai:
Không thực hiện chi trả trợ cấp một lần của anh Thành cho ông Nguyễn Văn Tuân. Đồng thời, tiếp nhận đơn có xác nhận của chính quyền địa