Tiểu luận Tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Nhân đạo XHCN và chính sách khoan hồng được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản chi phối mọi hoạt động của Đảng và nhà nước ta. Kể từ khi sự nghiệp đổi mới đất nước được Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, đặc biệt là hiện nay, khi chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vấn đề mở rộng nền dân chủ tăng cường pháp chế và các giá trị xã hội khác như công bằng, bình đẳng, nhân đạo, cũng như bảo vệ một cách đầy đủ các quyền của công dân, các quyền con người càng trở nên cấp bách. Điều đó đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung, pháp luật Hình sự nói riêng nhằm đảm bảo tính khoan hồng và nhân đạo XHCN. Trước yêu cầu trên, pháp luật về thi hành án tử hình đã không ngừng thay đổi và hoàn thiện nhằm bảo đảm tính nhân đạo và phù hợp với mục đích răn đe, giáo dục của hình phạt này. Tử hình được coi là hình phạt nghiêm khắc nhất do nhà nước áp dụng đối với người phạm tội để loại trừ người đó ra khỏi đời sống xã hội. Điều này cho thấy, hình phạt tử hình không chỉ đơn thuần là một chế định pháp luật hình sự mà còn là một phạm trù thuộc về chính trị, văn hóa, đạo đức, tâm linh rất sinh động. Các quy định của pháp luật về hình phạt tử hình nói chung và thi hành hình phạt này nói riêng phải chứa đựng các giá trị xã hội, trong đó có giá trị nhân đạo. Chính vì vậy, nghiên cứu tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam là rất cần thiết để bảo vệ có hiệu quả các lợi ích xã hội, song phải đặt trong mối quan hệ lợi ích với người bị kết án nhằm đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật Hình sự nước ta. Hơn nữa, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự giải quyết nhằm đảm bảo tính khoan hồng như: Đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình, vấn đề ân giảm án tử hình, việc gia đình người bị kết án xin xác về mai táng Trong khi đó, xét về mặt lí luận, tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình chưa được quan tâm thỏa đáng, và xung quanh chế định này còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.

doc37 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5820 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI NIÊN LUẬN TÍNH KHOAN HỒNG CỦA CHẾ ĐỊNH THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM A.PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Nhân đạo XHCN và chính sách khoan hồng được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản chi phối mọi hoạt động của Đảng và nhà nước ta. Kể từ khi sự nghiệp đổi mới đất nước được Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, đặc biệt là hiện nay, khi chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vấn đề mở rộng nền dân chủ tăng cường pháp chế và các giá trị xã hội khác như công bằng, bình đẳng, nhân đạo, cũng như bảo vệ một cách đầy đủ các quyền của công dân, các quyền con người càng trở nên cấp bách. Điều đó đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung, pháp luật Hình sự nói riêng nhằm đảm bảo tính khoan hồng và nhân đạo XHCN. Trước yêu cầu trên, pháp luật về thi hành án tử hình đã không ngừng thay đổi và hoàn thiện nhằm bảo đảm tính nhân đạo và phù hợp với mục đích răn đe, giáo dục của hình phạt này. Tử hình được coi là hình phạt nghiêm khắc nhất do nhà nước áp dụng đối với người phạm tội để loại trừ người đó ra khỏi đời sống xã hội. Điều này cho thấy, hình phạt tử hình không chỉ đơn thuần là một chế định pháp luật hình sự mà còn là một phạm trù thuộc về chính trị, văn hóa, đạo đức, tâm linh rất sinh động. Các quy định của pháp luật về hình phạt tử hình nói chung và thi hành hình phạt này nói riêng phải chứa đựng các giá trị xã hội, trong đó có giá trị nhân đạo. Chính vì vậy, nghiên cứu tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam là rất cần thiết để bảo vệ có hiệu quả các lợi ích xã hội, song phải đặt trong mối quan hệ lợi ích với người bị kết án nhằm đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật Hình sự nước ta. Hơn nữa, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự giải quyết nhằm đảm bảo tính khoan hồng như: Đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình, vấn đề ân giảm án tử hình, việc gia đình người bị kết án xin xác về mai táng…Trong khi đó, xét về mặt lí luận, tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình chưa được quan tâm thỏa đáng, và xung quanh chế định này còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” là mang tính cấp thiết, không những về lí luận, mà còn đòi hỏi về thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tủ hình phù hợp với tính khoan hồng và nhân đạo của nhà nước ta. Mục đích nghiên cứu của đề tài Hiểu rõ hơn về hình phạt tử hình cũng như sự ảnh hưởng của tính nhân đạo khoan hồng tới hình phạt này; Tìm hiểu và biết rõ hơn về việc áp dụng và thi hành hình phạt này trên thực tế; Tìm hiểu quy định của nhà nước ta trong từng giai đoạn cụ thể về hình phạt này và tác dụng của nó; Những điều đạt được, những mặt còn hạn chế, bất cập; Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về lý luận và thực tiễn, từ đó phát huy hơn nữa chủ nghĩa Nhân đạo XHCN. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu Quy định pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về thi hành hình phạt Tử hình; Tính khoan hồng của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong chế định thi hành hình phạt Tử hình. Phạm vi nghiên cứu Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Luật tố tụng hình sự 2003; Luật thi hành án hình sự năm 2010; Và một số tài liệu nghiên cứu khác. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Phương pháp luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về Nhà nước và pháp luật, những thành tựu của khoa học kỹ thuật như: khoa học pháp lý, triết học, logich học… Phương pháp nghiên cứu Phương pháp suy luận, phương pháp logich; Phương pháp thống kê, tổng hợp; Phương pháp so sánh, chứng minh; Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, tham khảo tài liệu, sách báo, tạp chí… Ngoài ra, còn sử dụng những phương pháp cần thiết khác. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phần kết luận thì nội dung gồm 2 chương: Chương I. Một số vấn đề lý luận về tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; Chương II. Thực tiễn và một số giải pháp đảm bảo tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; B. PHẦN NỘI DUNG Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TÍNH KHOAN HỒNG CỦA CHẾ ĐỊNH THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Khái niệm, các hình thức thi hành hình phạt tử hình và ý nghĩa của chế định thi hành hình phạt tử hình Khái niệm thi hành hình phạt tử hình Trước hết, để có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tử hình cần phải làm rõ khái niệm hình phạt tử hình. Trong hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện mức độ trừng trị cao nhất của Nhà nước đối với người phạm tội, bởi lẽ nó cướp đi quyền sống của người bị kết án, loại bỏ sự tồn tại của họ trong xã hội. Theo Điều 35 BLHS năm 1999 thì: Tử hình là hình phạt đặc biệt, tước bỏ quyền sống của người bị kết án phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Vấn đề tiếp theo cần phải làm rõ đó là khái niệm thi hành án Hình sự: Thi hành án hình sự có thể được hiểu đó là việc các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân có liên quan đưa bản án, quyết định Hình sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành làm cho nó có hiệu lực trên thực tế. Thi hành án tử hình là một bộ phận của thi hành án Hình sự. Từ khái niệm thi hành án Hình sự nói trên, ta có thể đưa ra khái niệm về thi hành án tử hình như sau: Thi hành hình phạt tử hình là hoạt động của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đưa bản án tử hình của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thực hiện trên thực tế với những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Đặc điểm của thi hành hình phạt tử hình gồm: Thi hành hình phạt tử hình là việc làm trên thực tế tước đi quyền sống của người phạm tội, cho nên cơ quan thi hành án phải tuân thủ những quy định hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Đây là đặc điểm chủ yếu để phân biệt hoạt động thi hành hình phạt tử hình so với các hoạt động thi hành án khác. Khác với việc thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp khác, nếu thi hành hình phạt tử hình có sai lầm thì không khắc phục được hậu quả. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt tử hình là tước đi mạng sống của người bị kết án, vì vậy, nếu như thi hành không đúng đối tượng bị kết án thì sai lầm này không thể khắc phục được. Việc thi hành hình phạt tử hình không những tước đi mạng sống của người bị kết án mà còn gây đau thương mất mát cho người thân của họ, đồng thời còn gây tâm lí tiêu cực nhất định lên những cá nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành án tử hình. Đây là đặc điểm chúng ta cần lưu ý khi thực hiện công tác tư tưởng đối với người thân của người bị kết án cũng như đối với cán bộ chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ cướp đi sinh mạng của người bị kết án. Các hình thức thi hành hình phạt tử hình Trên thế giới Hình thức thi hành hình phạt tử hình là cách thức tước bỏ sự sống còn của người bị kết án do cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Trong lịch sử tồn tại và phát triển, loài người đã thi hành nhiều hình thức tử hình. Việc thi hành hình phạt tử hình nào cho phù hợp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia. GS.TS người Nga A.Ph. Kixthiacopxki đã dày công nghiên cứu về những hình thức thi hành hình phạt tử hình trong lịch sử và đưa ra 21 hình thức thi hành hình phạt này chủ yếu đã dược loại người áp dụng như sau: 1) Treo cổ; 2) Chặt đầu; 3)Đun trong vạc dầu; 4)Dùng bánh xe cán chết; 5) xé xác người bị kết án thành những mảnh nhỏ; 6) Lột da cho đến chết; 7) chôn sống; 8) bóp cổ hoặc làm cho chết ngạt trong bao tải; 9) Thiêu chết; 10) Mổ bụng, moi ruột; 11) Cho ngồi lên cọc nhọ hoặc dung cọc nhọn đâm thủng người; 12) Đốt cổ họng bằng chì đun sôi; 13) Đẩy người bị kết án từ đỉnh núi xuống vực; 14) Thắt cổ; 15) Voi dày, ngựa xéo; 16) Quăng cho hổ báo ăn thịt; 17) Dùng đá ném đến chết; 18)Cho chết đói chết khát; 19) Đầu độc chết; 20) Dùng gậy đánh chết; 21) Xử bắn. Từ sự thống kê này, A.Ph. Kixthiacopxki đã chia hình thức thi hành hình phạt tử hình thành hai loại: loại hình thức thi hành hình phạt tử hình bình thường (treo cổ, xử bắn…) và loại hình thức thi hành hình phạt tử hình đặc biệt ngoài việc tước sự sống của người bị kết án, còn có mục đích làm đau đớn một cách thảm khốc cho họ như đun người bị kết án trong vạc dầu, xé xác… Hiện nay trên thế giới pháp luật tố tụng hình sự các nước quy định bảy hình thức thi hành hình phạt tử hình như sau: Xử bắn Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình mang tính phổ biến nhất. Theo số liệu của Tổ chức ân xá quốc tế có 86 quốc gia trên Thế giới áp dụng hình thức này. Việc xử bắn có thể do một người hoặc một nhóm người thi hành. Trường hợp việc xử bắn do một người thi hành, thì người đó dùng súng ngắn, bắn vào đầu người bị kết án ở cự ly ngắn, làm người đó chết ngay. Trường hợp xử bắn do một nhóm người thi hành thì cự ly bắn được thực hiện xa hơn. Treo cổ Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình bị tổ chức Ân xá quốc tế cho là dã man và cần phải bãi bỏ, tuy nhiên vẫn còn 70 nước trên Thế giới áp dụng hình thức này như Singapore, Ấn Độ, Nhật Bản… Chém đầu Đây là hình thức tử hình được 6 quốc gia áp dụng. Cách thức chém đầu có hai cách: dùng máy chém hoặc dùng kiếm. Hiện nay, Vương quốc Ảrập Xêuts là quốc gia thường áp dụng hình thức này. Ném đá đến chết Đây là hình thức tử hình vô nhân đạo nhất hiện nay, trong đó người bị kết án bị chon chỉ để hở đầu trên mặt đất, sau đó bị ném đá cho đến chết. Điều 119 BLHS Hồi giáo nước Cộng hòa Iran còn quy định: “các viên đá không được có kích thuóc lớn để người bị kết án không chết ngay sau khi ném 1, 2 viên; đồng thời cũng không được có kích thước nhỏ quá”. Hình thức thi hành hình phạt tử hình này còn được áp dụng ở Xu Đăng và một số nước ở Trung Cận Đông. Ngồi ghế điện Đây là hình thức thi hành hình phạt bằng cách cho dòng điện chạy qua than thể người bị kết án, lần đàu được thực hiện vào năm 1888 tại Nữu Ước, Hoa Kỳ. Trước khi hành hình 4 tuần lễ người bị kết án được chuyển đến khu giam giữ đặc biệt, được viết nguyện vọng về nơi chon cất và tài sản thừa kế. Người ta thử 3 lần ghế điện, chuẩn bị dung dich Amoniac dung làm chat cách điện, thấm vào một cái đệm để áp vào đầu người bị kết án (bị cạo trọc), chân phải người đó được bôi chất dẫn điện. Người bị kết án bị buộc vào ghế điện. Hai cực điện đặt vào đầu, chân phải người bị kết án và vòng điện mạnh 2500 vôn được đóng. Việc cắm điẹn làm người bị kết án ngất ngay lập tức nhưng cái chết chỉ xuất hiện sau một thời gian nhất định, trong một số trường hợp phải sau từ 10-15 phút bị án mới chết. Dùng hơi ngạt Đây là hình thức thi hành hình phat tử hình áp dụng từ những năm 30 thế kỉ 20. Người bị kết án được buộc vào một chiếc ghế trong một phòng được thiết kế hoàn toàn bằn thép, ở ngực người bị kết án, người ta gắn một ống nghe của bác sĩ và dây cao su dẫn tới phòng bên để bác sĩ theo dõi nhịp tim của bị án. Dưới ghế ngồi của bị án được đặt 16 viên thuốc độc (Xianua). Khi cánh cửa thép được đóng lại, người ta cho chạy thiết bị làm những viên thuốc độc được hòa vào dung dịch axít, thuốc độc bốc thành khói, làm ngạt thở người bị kết án, từ đó dẫn đến tim ngừng đập. Hình thức này bị coi là phức tạp và khá tốn kém. Tiêm thuốc độc Đây là hình thức thi hành hình phat tử hình, trong đó người bị kết án bị buộc vào một cái cáng, được đưa vào một phòng kín, rồi bị tiêm thuốc độc vào bắp thịt. Hình thức này được áp dụng lần đầu tại Hoa kỳ năm 1977. Khi bị tiêm thuốc độc mạnh vào mạch máu, người bị kết án sẽ bị chết trong khoảng thời gian từ 32 giây đến một phút. Tuy nhiên đã xảy ra một số trường hợp người bị kết án không chết ngay do dụng cụ truyền chất đọc trượt khỏi mạch máu hoặc thuốc độc không đủ mạnh khi pha chế. Hình thức tử hình này được coi là nhân đạo và tiết kiệm hơn cả, được 34 bang của Hoa kỳ, Trung Quốc, Việt Nam và các nước khác trên Thế giới áp dụng. Ở Việt Nam Trước năm 1945. Thời kì này nước ta tồn tại chế độ phong kiến, và cũng như những nhà nước phong kiến khác trên Thế giới, hình phạt ở nước ta với hệ thống ngủ hình ( xuy, trượng, đồ, lưu, tử ), nhất là hình phạt tử hình mang nặng tính dã man, tàn bạo, là công cụ bảo vệ giai cấp cầm quyền và nền độc lập quốc gia. Hình phạt tử hình được duy trì với nhiều hình thức như: thắt cổ, chém đầu, chém bêu đầu, nấu trong vạc dầu, xẻo thịt cho đến chết…rất dã man, nhằm gây ra cho người bị kết án những đau đớn tột cùng về thể xác. Nhìn chung, Tử hình dưới chế độ phong khiến được giai cấp thống trị sử dụng như là một công cụ chủ yếu chống lại các hành vi phạm tội, bảo vệ tuyệt đối quyền và lợi ích của giai cấp mình. Vì vậy hình phạt tử hình được quy định với phạm vi rất rộng và nặng về tư tưởng trừng trị. Từ năm 1945 đến trước khi Luật thi hành án hình sự 2010 có hiệu lực (01/07/2011). Trong thời kỳ này, Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến sự điều chỉnh pháp luật việc thi hành hình phạt tử hình. Ngày 31-6-1946, Bộ Tư pháp đã ban hành thông tư số 498, trong đó quy định: "Thi hành hình phạt tử hình từ nay dùng súng thay máy chém" . Quy định về hình thức tử hình này thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ mới, khác về chất so với hình thức tử hình dã man dùng máy chém của chế độ thực dân phong kiến. Trong Quy tắc trại giam được ban hành ngày 12-6-1951, đã quy định vấn đề chuẩn bị và kết thúc việc thi hành án tử hình tại Điều 6: "Mỗi khi đưa phạm nhân ra chịu án tử hình, Ban Giám thị phải xét kỹ căn cước để đề phòng nhầm lẫn" và tại Điều 21 quy định: "Khi thi hành xong một án tử hình, Tòa án phải báo cho Ủy ban hành chính sở tại để đăng ký việc tử" . Vấn đề xét ân giảm án tử hình cũng đã được quy định trong Thông tư số 335/TTg ngày 6-7-1954 của Thủ tướng phủ: Sau khi Tòa án nhân dân đã lên án tử hình, phạm nhân vẫn có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Đơn xin ân xá, ân giảm do Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp làm tờ trình lên Chủ tịch nước quyết định. Trong trường hợp người bị kết án là phụ nữ thì trước khi ra quyết định thi hành án, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải tổ chức kiểm tra các điều kiện không áp dụng hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1985. Đây có thể nói là bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn và tôn trọng quyền con người, tôn trọng phụ nữ của dân tộc ta. Nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định việc thi hành hình phạt tử hình trong thời kỳ này, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, pháp luật trong giai đoạn này mang tính chất thời chiến, nhưng cũng đã kịp thời quy định một số vấn đề cơ bản của việc thi hành hình phạt tử hình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thi hành hình phạt tử hình, góp phần vào cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và tay sai. Thứ hai, việc thi hành hình phạt tử hình được quy định trong BLTTHS 1988 đã có những thay đổi về chất mang tính khoan hồng và nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà Nước đối với chế độ mới; so với những biện pháp hà khắc, dã man tồn tại trong thời kì trước như: Việc ân giảm án tử hình, các điều kiện không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ. Thời kỳ này hình thức thi hành hình phạt tử hình được điều chỉnh bởi BLHS Việt Nam 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) và BLTTHS 2003, nhìn chung hình thức thi hành án tử hình vẫn là xử bắn. Hình thức xử bắn có tác dụng răn đe tội phạm, tuyên truyền phòng ngừa tội phạm cao. So với các hình thức tử hình trước đây, so với các hình thức tử hình đã tồn tại trong lịch sử loài người và một số phương thức đang hiện hành ở các nước xử bắn đã thể hiện sự tiến bộ và mang tính nhân bản hơn nhiều. Tuy nhiên, hình thức tử hình này không nhân đạo và khoan hồng ở chổ làm cho thi thể bị cáo không còn nguyên vẹn, và ảnh hưởng nhiều đến tâm lí, tư tưởng cán bộ thi hành án. Số cán bộ công an đã tham gia xử bắn nhiều hoặc xử bắn các bị cáo nữ, hoặc trực tiếp được giao trói, bịt mắt, nhét giẻ vào mồm bị cáo, hoặc được giao bắn viên đạn cuối cùng vào thái dương phạm nhân đều ảnh hưởng đến tâm lí nhiều. Từ khi Luật thi hành án hình sự 2010 có hiệu lực (01/07/2011) đến nay. Luật thi hành án hình sự năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2011) đã quy định hình thức tử hình mới đó là tiêm thuốc độc. Việc quy định chuyển từ hình thức xử bắn sang tiêm thuốc độc thể hiện thái độ khoan hồng trong chủ trương đường lối của Đảng ta. Việc tiêm thuốc độc thay hình thức xử bắn đối với tử tù đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Hình thức này ít gây đau đớn cho người bị thi hành án, đảm bảo tử thi còn nguyên vẹn, ít tốn kém và giảm áp lực tâm lý cho người trực tiếp thi hành án (hiện do lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực thi). Hình thức tử hình bằng tiêm thuốc độc có thể hiểu là tiêm vào người tử tội một liều thuốc độc ( thường gồm 3 loại:một để gây mê, một để cơ bắp thịt và thần kinh ngưng hoạt động và một để cho tim ngừng đập) để kết thúc sự sống của tử tội. Về cơ chế chết trong phương thức thi hành hình phạt tử tội này là :làm cho tử tội ngủ, sau đó làm ngưng thở và tim ngừng đập. Thường các tử tội chết trong vòng từ 32 giây đến 1 phút. Ý nghĩa của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Chế định thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta. Việc nhận thức và áp dụng đúng đắn chế định thi hành hình phạt tử hình trong thực tiễn là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm thi hành hình phạt tử hình đúng người, không để xảy ra oan, sai trong lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm này. Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả đạt được của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy, việc quy định chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn, vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân. Những hành vi vi phạm pháp luật về thi hành hình phạt tử hình không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng. Việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử hình. Thêm nữa, việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, đề xuất các hình thức thi hành hình phạt tử hình tiết kiệm, dễ áp dụng, "nhân đạo" nhất cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế và bản chất nhân đạo XHCN của Nhà nước ta. Ngoài ra, chế định thi hành hình phạt tử hình, còn có ý nghĩa là cơ sở pháp lý cho một số ngành khoa học pháp lý có liên quan chặt chẽ với khoa học luật tố tụng hình sự như tội phạm học, tâm lý học tư pháp, khoa học kỹ thuật hình sự... Tính khoan hồng của chế định thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật tố tụng hình sự Việt N
Luận văn liên quan