Việt Nam từng là một nền kinh tế được bảo hộ cao khi hàng hóa và dịch vụ
nhập khẩu phải chịu rất nhiều loại rào cản thuế quan và phi thuế quan. Kể từ thập niên
1990 Việt Nam đã thực hiện các chính sách mở cửa nền kinh tế, nhờ vào đó giá trị
xuất khẩu đã gia tăng một cách đáng kể. Tuy nhiên hiện nay nhiều người Việt Nam
vẫn tự hỏi rằng “Quá trình toàn cầu hóa và sự mở cửa thị trường của Việt Nam đã
làm cho nền kinh tế Việt nam tốt lên hay xấu đi”.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế
hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra đời và phát triển của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Do đó khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) đó là cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới,
được đối xử bình đẳng trên “sân chơi chung” của thế giới. Hội nhập đem lại nhiều cơ
hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức
cao; các rào cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ
kinh tế, đối ngoại, lao động được thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài. Hội nhập tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho đất nước, nhưng cũng
đồng thời là thách thức lớn nếu ta chưa có một nội lực đủ mạnh. Chúng ta cần nhận
thức rõ mối nguy chung này để biến thành những nội lực mạnh mẽ của Việt Nam,
trước hết là tinh thần hội nhập, tinh thần đoàn kết; sau là nhiệm vụ phải nhanh chóng
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà, song song với việc phát triển văn
hóa - xã hội, nhằm tạo nên một mô hình phát triển nhanh, mạnh, hài hòa và bền vững.
Quá trình toàn cầu hóa và mở của thị trường đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi
cho Việt Nam, đặc biệt đối với lĩnh vực lao động và việc làm, cụ thể:
Tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc
đẩy thương mại phát triển. Việt Nam có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra
thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng
rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng
dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng có những ảnh hưởng tích cực đến
hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều
công ăn việc làm cho người lao động.
Tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản thân người lao động và
các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác, chuyển giao công nghệ với các
nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó là các chuẩn mực, mô hình hệ
thống tổ chức quản lý hiện đại được áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất
Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân lực
cho lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam gia
nhập WTO sẽ đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có
một lượng lớn lao động nông nghiệp, thanh niên nông thôn nhàn rỗi, thiếu việc làm
tham gia vào hoạt động kinh tế trong các doanh nghiệp, các hộ gia đình, đơn vị kinh
doanh cá thể Điều này đồng nghĩa với mang lại nhiều cơ hội thay đổi công việc và
tăng thu nhập cho một bộ phận lớn lao động nông nghiệp hiện nay. Hơn nữa, sự phát
triển nhanh chóng về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt động trao đổi chuyên
gia giữa các nước với Việt Nam sẽ làm cho trình độ chuyên môn kỹ thuật. Hợp tác
quốc tế về lao động có cơ hội phát triển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng nhân lực,
để có thể làm chủ các công nghệ và thiết bị tiên tiến trên thế giới.
13 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Toàn cầu hóa sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam tốt lên hay xấu đi?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề:
Toàn cầu hóa sẽ làm cho nền kinh tế
Việt Nam tốt lên hay xấu đi?
Môn học : Quản trị kinh doanh quốc tế
Học Viên : Đinh Thị Thúy Lan
Lớp : Cao học Q TKD Đêm 1 – K20
Việt Nam từng là một nền kinh tế được bảo hộ cao khi hàng hóa và dịch vụ
nhập khẩu phải chịu rất nhiều loại rào cản thuế quan và phi thuế quan. Kể từ thập niên
1990 Việt Nam đã thực hiện các chính sách mở cửa nền kinh tế, nhờ vào đó giá trị
xuất khẩu đã gia tăng một cách đáng kể. Tuy nhiên hiện nay nhiều người Việt Nam
vẫn tự hỏi rằng “Quá trình toàn cầu hóa và sự mở cửa thị trường của Việt Nam đã
làm cho nền kinh tế Việt nam tốt lên hay xấu đi”.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế
hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra đời và phát triển của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Do đó khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) đó là cơ hội tốt để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới,
được đối xử bình đẳng trên “sân chơi chung” của thế giới. Hội nhập đem lại nhiều cơ
hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức
cao; các rào cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ
kinh tế, đối ngoại, lao động… được thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài. Hội nhập tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho đất nước, nhưng cũng
đồng thời là thách thức lớn nếu ta chưa có một nội lực đủ mạnh. Chúng ta cần nhận
thức rõ mối nguy chung này để biến thành những nội lực mạnh mẽ của Việt Nam,
trước hết là tinh thần hội nhập, tinh thần đoàn kết; sau là nhiệm vụ phải nhanh chóng
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà, song song với việc phát triển văn
hóa - xã hội, nhằm tạo nên một mô hình phát triển nhanh, mạnh, hài hòa và bền vững.
Quá trình toàn cầu hóa và mở của thị trường đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi
cho Việt Nam, đặc biệt đối với lĩnh vực lao động và việc làm, cụ thể:
Tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc
đẩy thương mại phát triển. Việt Nam có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra
thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng
rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng
dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng có những ảnh hưởng tích cực đến
hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều
công ăn việc làm cho người lao động.
Tạo ra cơ hội gia tăng các giá trị tài sản vô hình cho bản thân người lao động và
các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp tác, chuyển giao công nghệ với các
nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó là các chuẩn mực, mô hình hệ
thống tổ chức quản lý hiện đại được áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất…
Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân lực
cho lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam gia
nhập WTO sẽ đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có
một lượng lớn lao động nông nghiệp, thanh niên nông thôn nhàn rỗi, thiếu việc làm
tham gia vào hoạt động kinh tế trong các doanh nghiệp, các hộ gia đình, đơn vị kinh
doanh cá thể… Điều này đồng nghĩa với mang lại nhiều cơ hội thay đổi công việc và
tăng thu nhập cho một bộ phận lớn lao động nông nghiệp hiện nay. Hơn nữa, sự phát
triển nhanh chóng về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt động trao đổi chuyên
gia giữa các nước với Việt Nam sẽ làm cho trình độ chuyên môn kỹ thuật. Hợp tác
quốc tế về lao động có cơ hội phát triển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng nhân lực,
để có thể làm chủ các công nghệ và thiết bị tiên tiến trên thế giới.
Tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực. Thông qua các dự
án hợp tác đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam, sẽ tạo ra các nguồn
tài chính dồi dào hơn cho việc đổi mới công nghệ và thiết bị của các ngành kinh tế.
Tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động theo định hướng thị
trường. Đó là những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Trong khi những
lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt giảm. Tạo điều kiện cho nhân
lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng hơn vào phân công và hợp tác lao động
quốc tế. Đặt nền móng cho việc tạo việc làm một cách ổn định và bền vững.
Bên cạnh những cơ hội đó, hiện nay Việt Nam đồng thời cũng phải đương đầu
với các thách thức như: Nền kinh tế nước ta tuy có tăng lên nhưng vẫn còn là một
trong những nước nghèo với mức GDP khoảng 1200 USD/người (năm 2011), hệ thống
chính sách kinh tế-xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ
thuật, trình độ quản lý có sự chênh lệch lớn so với các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức trong giải quyết việc làm,
các doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém, quy mô nhỏ có nguy cơ phá sản; mất việc
làm, thiếu việc làm lớn trong khu vực phi chính thức; chất lượng lao động chưa đáp
ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa… Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi
các nền kinh tế lâm vào khủng hoảng thì việc làm sẽ giảm sút mạnh và tỷ lệ thất
nghiệp sẽ tăng cao.
Nước ta là một nước có truyền thống nông nghiệp, với khoảng 75% dân số sống
ở nông thôn và sống bằng nông nghiệp. Nhìn vào cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và cơ cấu
giá trị trong mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu sẽ thấy có nhiều mặt hàng chủ lực nếu
chúng ta càng xuất khẩu được nhiều thì càng thiệt thòi. Ngành nông nghiệp này sẽ bị
ảnh hưởng rất nặng nề khi Việt Nam gia nhập WTO, nông sản Việt Nam có nguy cơ
thua ngay trên sân nhà, tình trạng càng xuất khẩu càng thua thiệt sẽ ngày càng trầm
trọng. Đây là những nghịch lý không thể chấp nhận được đối với một đất nước có đầy
tiềm năng như Việt Nam; trong khi đó, nhìn ra thế giới, những nước có điều kiện tự
nhiên vô cùng kém thuận lợi so với Việt Nam lại có nền nông nghiệp rất phát triển như
Nhật Bản, Israel. Ngay khi so với các nước cùng phát triển thì thu nhập của người
nông dân Việt Nam thấp hơn nhiều so với Thái Lan. "Phi nông bất ổn", nông nghiệp
chính là ngành tạo ra sự ổn định, làm nền tảng cho đất nước phát triển; tuy nhiên, với
sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các mô hình nông nghiệp hàng
đầu thế giới, và tiềm năng của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể làm được nhiều
hơn thế, tạo nên một ngành nông nghiệp Việt Nam hàng đầu thế giới.
Sức cạnh tranh của nền công nghiệp chúng ta cũng có rất nhiều vấn đề. Công
nghiệp nặng không hiệu quả, công nghiệp nhẹ chủ yếu là gia công, hàm lượng khoa
học công nghệ thấp tạo ra giá trị gia tăng rất thấp. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO
báo hiệu sẽ gây ra nhiều tác động lớn đến các lĩnh vực dệt may, chế biến nông hải
sản,... đòi hỏi công nghiệp phải có những bước chuyển mình căn bản hơn nữa, tốc độ
cao hơn nữa. Chúng ta cần thoát khỏi nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp, trở thành
một đất nước chuyên xuất thô và cung cấp lao động phổ thông giá trị thấp; nguy cơ
phá sản cả một ngành, một lĩnh vực kinh doanh.
Hơn thế nữa, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay không chỉ là vấn đề kinh tế thuần
tuý. Nó tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước ta, cho
phép chúng ta tiếp cận với nền văn minh công nghiệp của thế giới, đồng thời cũng đặt
ra rất nhiều thách thức đối với chúng ta về chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh…
M ặc dù nước ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa lâu, kinh nghiệm còn
hạn chế nhưng cũng đã mang lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước
và có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ, với hầu hết các
tổ chức quốc tế, khu vực quan trọng. Đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận của
các nước, thế lực thù địch. Tạo được thế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên chính trường và thương trường quốc tế.
Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tranh thủ được
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể nợ nước
ngoài. Việc tăng cường vận động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, việc ký kết và thực
hiện các hiệp định song phương liên quan đến đầu tư đã xuất hiện động thái mới về
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thể hiện qua việc gia tăng số lượng nhà đầu tư vào
Việt Nam khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh.
Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý.
Nhiều ngành kinh tế mới đã xuất hiện dựa trên cơ sở tăng cao hàm lượng chất xám
trong sản xuất - kinh doanh. Các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu… từng bước được
nâng lên tầm cao mới, sản phẩm ngày càng tạo được uy tín trên thị trường trong và
ngoài nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá - hiện
đại hoá. Tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng giảm. Trong đó xu hướng tỷ trọng giá trị của
dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị sản phẩm nông - công nghiệp ngày càng giảm
tương ứng.
Giữ vững sự ổn định về kinh tế. Điều này thể hiện ở nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng liên tục khá cao và tương đối ổn định, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế. GDP tăng liên tục qua các năm với nhịp tăng bình quân hàng năm 7,5%. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên GDP năm 2012 được dự
đoán khoảng 5%. Như vậy liên tục trong thời gian qua, kinh tế Việt Nam luôn đạt mức
tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực. Đặc biệt, tỷ lệ người nghèo đói ở Việt
Nam đã giảm mạnh.
Bước đầu chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng cũng vẫn
còn những mặt hạn chế, yếu kém nhất định. Cụ thể là: Nhận thức về hội nhập của cán
bộ và nhân dân chưa được nhất trí cao. Chưa có một kế hoạch tổng thể và dài hạn để
hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống chính sách, luật pháp quản lý kinh tế, thương mại
chưa hoàn chỉnh, còn có những chính sách, luật chưa thực sự phù hợp với những thông
lệ quốc tế; lực lượng sản xuất có nguy cơ tụt hậu so với trình độ phát triển chung của
thế giới, do đó sức cạnh tranh hàng hoá kém, hiệu quả đầu tư thấp. Cơ cấu hàng hoá
chủ yếu là bán sản phẩm và gia công, xuất khẩu tuy với khối lượng lớn nhưng giá trị
thu được thấp. Trước xu thế nhập khẩu và sức cạnh tranh chưa đủ mạnh, có thể dẫn
đến khả năng mất thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, mục tiêu phát
triển kinh tế của ta là hướng về xuất khẩu, nhưng thực tế lại có xu hướng thực hiện
theo mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nền kinh tế đang ở trình độ phát
triển chậm, còn chênh lệch quá nhiều so với các nước trong khu vực; đội ngũ cán bộ
quản lý còn thiếu, yếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại;
Bản sắc văn hoá đang bị đe doạ, đặc biệt là lối sống của lớp trẻ.
Việt nam có những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ
hơn trong quá trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như toàn
cầu hóa tạo ra những cơ hội mới và những thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt
Nam. Những điều kiện thuận lợi và cơ hội đó có thể kể đến là:
Có vị trí địa lý thuận lợi có thể dễ dàng phát triển kinh tế thương mại, văn hoá,
khoa học kỹ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời Việt Nam là
nước đang diễn ra hoạt động kinh tế sôi nổi nhất thế giới. Điều này tạo ra môi trường
thuận lợi để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế.
Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng: Việt Nam có nhiều loại tài
nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai
thác hoặc khai thác ở mức độ thấp sử dụng chưa hợp lý. Đây là nguồn lực bên trong để
phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng đầu tư của đối tượng tư bản nước ngoài.
Tài nguyên nhân văn phong phú: Bao gồm lực lượng lao động dồi dào và những
hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử của dân tộc. Đây
là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của tư bản nước ngoài. Có một thị trường
rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm được sản xuất ra trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát
triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)...; có điều kiện tiếp
nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý thông qua các dự án đầu tư. Một trong
những lợi thế quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam là có nguồn lao động dào,
dân số trẻ, lao động lại cần cù chăm chỉ, do đó chi phí cho sản xuất sản phẩm thấp tạo
ưu thế về giá cho các sản phẩm công nghiệp. Đó cũng là nhân tố thu hút sự đầu tư của
các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam.
Doanh nghiệp Việt Nam luôn rất năng động, họ có thể làm việc nhiều hơn các
đồng nghiệp ở những nước khác rất nhiều và trên hết chính là sự tự giác sáng tạo, đổi
mới. Theo đánh giá thì đã có trên 40 % doanh nghiệp áp dụng thành tựu khoa học công
nghệ vào trong hoạt động quản lý, trên 43% doanh nghiệp giảm tối đa biên chế quản
lý; 73,7% doanh nghiệp thực hiện các biện pháp tiết kiệm các chi phí gây lãng phí;
nhiều doanh nghiệp đã xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO 9000 nhằm chủ động trong việc xây dựng quy trình công tác, hợp lý hoá
sản xuất, giảm biên chế hành chính, giảm chi phí quản lý.
Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường tiêu thụ và thị trường yếu tố sản xuất.
Trong giao lưu thương mại thị trường rộng lớn là cơ hội để các doanh nghiệp tăng
doanh thu và lợi nhuận từ việc buôn bán, trao đổi các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, …
của mình cho thị trường các nước khác trên thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam là thành
viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì những vướng mắc trong hàng rào bảo
hộ: phi thuế quan,.. phần nào được giải tỏa. Các nước tham gia vào sân chơi này phải
mở cửa thị trường để hàng hóa, sản phẩm được giao lưu buôn bán tự do, dễ dàng. Do
đó, Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được lựa chọn và sử dụng các nguồn đầu vào có
chất lượng, giá cả hợp lý, tiết kiệm chi phí sản xuất…
Các doanh nghiệp Việt nam thường xuyên đối mặt với khả năng tài chính hạn
hẹp do tiềm lực vốn đất nước chư đủ mạnh. Quá trình toàn cầu hóa với làn sóng đầu tư
mạnh mẽ của các chủ đầu tư nước ngoài, các nguồn tài trợ vốn từ các tổ chức lớn như
Ngân hàng thế giới (WB),…là cơ hội rõ ràng để các doanh nghiệp Việt giải tỏa cơn
khát vốn bấy lâu.
Có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và trình độ quản lý tiên tiến, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Thông qua các dự án, các hợp đồng hợp tác kinh
doanh các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với công nghệ, máy móc hiện
đại, cách quản lý tiên tiến. Trong thời đại bùng nổ khoa học công nghệ như ngày nay,
thêm vào đó là những thuận lợi do toàn cầu hóa các doanh nghiệp có thể dễ dàng đổi
mới công nghệ sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, công xuất sản xuất, nâng cao
trình độ quản lý,…
Cơ hội khẳng định được vị thế của doanh nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin, Một thế giới kết nối, sự bảo hộ thương hiệu được quan tâm, cùng
các hình thức quảng cáo quảng bá sản phẩm, dịch vụ đa dạng phong phú. Đây là cơ
hội rõ nét để các doanh nghiệp khẳng định vị thế, quảng bá, nâng tầm hình ảnh của
mình trên trường quốc tế, với bè bạn các nước. Ví dụ như Nhãn hiệu cà phê Trung
Nguyên, may mặc Việt Tiến, Viettel...là nhưng thương hiệu đã có vị thế của riêng
mình.
Cơ hội giao lưu hợp tác, trao đổi học hỏi với các doanh nghiệp khác trên thế
giới. Toàn cầu hóa cũng tạo cơ hội cho các doanh ngiệp giao lưu văn hóa, học hỏi kinh
nghiệm, hợp tác quốc tế với thế giới, với các doanh nghiệp khác không chỉ trong mà cả
ngoài nước.
Trong quá trình toàn cầu hóa các doanh nghiệp của Việt Nam bên cạnh các
điểm mạnh còn có các điểm yếu cần chú ý:
Hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh
nghiệp. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản
xuất kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm có sự
tăng trưởng cao (hàng da giày, dệt may, chế biến thực phẩm, đồ uống, sản phẩm thép
và kim loại màu, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, ô tô, xe máy…) đều phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, giá cả các
loại nguyên vật liệu này trên thế giới có xu hướng gia tăng, làm cho nhiều nhóm sản
phẩm có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu khá cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm.
M ặt khác, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu
mạnh, chưa khẳng định được uy tín chất lượng và năng lực cạnh tranh trên thị trường
khu vực và quốc tế. Trên thực tế, trong nhiều sản phẩm của Việt Nam yếu tố cấu thành
của tri thức, công nghệ thấp, trong khi yếu tố sức lao động và nguyên vật liệu cao…
Điều đó làm cho sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm không có ưu thế rõ rệt trên
thị trường.
Năm 2012 là năm khó khăn đối với xuất khẩu Việt Nam. Trong bối cảnh nền
kinh tế thế giới chưa thực sự thoát khỏi khủng hoảng, bên cạnh sự sụt giảm về số
lượng các đơn hàng ở hầu khắp các thị trường, hàng hóa Việt Nam còn phải đối mặt
với một loạt rào cản không dễ vượt qua mà đáng kể nhất là các biện pháp phòng vệ
thương mại.
Doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm quản lý, nhất là quản lý các doanh
nghiệp, tập đoàn lớn, phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia, trong đó, một số
lại tự ti hoặc tự thoả mãn với những kết quả hiện tại. Theo kết quả điều tra, có 40,6%
doanh nghiệp đã áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong quản lý, giảm tối đa biên
chế quản lý là 48,4%, tiết kiệm các chi phí gây lãng phí 73,7%, việc xây dựng và áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO: 9000 sẽ giúp cho doanh nghiệp
chủ động trong việc xây dựng qui trình công tác cho từng lao động và mối quan hệ dây
chuyền giữa các lao động và bộ phận công tác nhằm hợp lý hóa sản xuất và quản lý,
giảm biên chế hành chính, góp phần giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm. Tuy
nhiên, việc thuê chuyên gia và đào tạo để ứng dụng ISO có thể đòi hỏi một số chi phí
tương đối lớn ban đầu, coi như một khoản đầu tư để cải tiến quản lý. Có 32,0% doanh
nghiệp đã quản lý doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO.
Tầm nhìn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, chưa có chiến lược
kinh doanh phù hợp, rõ ràng. Về hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh
nghiệp: Theo một điều tra của tác giả (Nguyễn Vĩnh Thanh - Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế) với 175 doanh nghiệp, có 16% số doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường
một cách thường xuyên, 84% số doanh nghiệp còn lại cho rằng công tác nghiên cứu thị
trường không nhất thiết phải làm thường xuyên, họ chỉ tiến hành nghiên cứu trước khi
có ý định xâm nhập thị trường. M ột số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam cho thấy, chỉ chưa đầy 10% số doanh nghiệp là thường xuyên thăm thị
trường nước ngoài, chủ yếu là những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước, 42%
số doanh nghiệp thỉnh thoảng mới có cuộc đi thăm thị trường nước ngoài, và khoảng
20% không một lần đặt chân lên thị trường ngoài nước.
Các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân thì khả năng thâm nhập thị
trường nước ngoài hầu như không có. Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường còn
hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều doanh
nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu thị
trường. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tầm q