Tài chính – tiền tệ và lý thuyết của nó là lĩnh vực vô cùng nhạy cảm. Nó luôn luôn thay đổi
làm cho hầu hết các nhà nghiên cứu lĩnh vực này có nhiều tranh cãi không vãn hồi. Việc vận
dụng công cụ, mô hình, chính sách tài chính – tiền tệ luôn có vị trí xung lực ấn nút đối với nền
kinh tế quốc dân mỗi nước. Lĩnh vực tài chính có khả năng tiềm ẩn biến cả khu vực thành một
làng không biên giới.
Trong lĩnh vực tài chính –tiền tệ, vô luận về thời gian và không gian nào, người ta vẫn phải
đi tìm một nền tảng lý thuyết và nguyên lý của nó. Tiền tệ và tài chính là một phạm trù kinh tế
gắn liền với nền sản xuất và lưu hông hàng hóa. Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi quốc tế; đặc biệt nền kinh tế thị
trường – nền kinh tế được tiền tệ hóa cao độ.
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối gắn liền với quá trình hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ. Các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và vô cùng đa dạng chúng
đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế.
Trong rất nhiều các vấn đề về tài chính- tiền tệ vấn đề về lãi suất và tỷ giá hối đoái đóng
một vai trò hết sức to lớn chúng tác động mạnh mẽ vào thị trường tài chính trong nước và cả
phạm vi thế giới. Sự biến động của lãi suất kéo theo sự biến động của chi phí tín dụng từ đó tác
động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế . Còn sự biến động của
tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động kinh tế từ hoạt động xuất nhập khẩu đến
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước. Vì vậy, Lãi suất và tỷ giá hối đoái là một trong
những công cụ chủ yếu của ngân hàng trung ương thực thi về chính sách tiền tệ của mình. Vậy
lãi suất và tỷ giá hối đoái có mối quan hệ như thế nào? Sự ảnh hưởng của chúng ra sao đối với
thị trường tài chính tiền tệ? Và khi vận hành tốt hay không tốt hai công cụ này thì kết quả tạo ra
như thế nào cho trị trường tài chính tiền tệ? Đó là những vấn đề chúng ta cần giải quyết khi xem
xét chúng. Vậy, Chúng ta cần tìm hiều, tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và
lãi suất và xem xét những nhận định của các nhà nghiên cứu về vấn đề này như thế nào?
9 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Tiểu luận 06:
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ LÃI SUẤT
GVHD : TRƯƠNG MINH TUẤN
Lớp : VB2K15KT002
Nhóm TH : NHÓM 20
1. Lê Thị Hồng Thoa 127
2. Trịnh Thị Hiền 37
3. Ngô Thị Hường 54
4. Nguyễn Thị Liễu 62
THÁNG 11/2012
Phần 1
MỞ ĐẦU
Tài chính – tiền tệ và lý thuyết của nó là lĩnh vực vô cùng nhạy cảm. Nó luôn luôn thay đổi
làm cho hầu hết các nhà nghiên cứu lĩnh vực này có nhiều tranh cãi không vãn hồi. Việc vận
dụng công cụ, mô hình, chính sách tài chính – tiền tệ luôn có vị trí xung lực ấn nút đối với nền
kinh tế quốc dân mỗi nước. Lĩnh vực tài chính có khả năng tiềm ẩn biến cả khu vực thành một
làng không biên giới.
Trong lĩnh vực tài chính –tiền tệ, vô luận về thời gian và không gian nào, người ta vẫn phải
đi tìm một nền tảng lý thuyết và nguyên lý của nó. Tiền tệ và tài chính là một phạm t rù kinh tế
gắn liền với nền sản xuất và lưu hông hàng hóa. Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi quốc tế; đặc biệt nền kinh tế thị
trường – nền kinh tế được tiền tệ hóa cao độ.
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối gắn liền với quá trình hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ. Các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và vô cùng đa dạng chúng
đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế.
Trong rất nhiều các vấn đề về tài chính- tiền tệ vấn đề về lãi suất và tỷ giá hối đoái đóng
một vai trò hết sức to lớn chúng tác động mạnh mẽ vào thị trường tài chính trong nước và cả
phạm vi thế giới. Sự biến động của lãi suất kéo theo sự biến động của chi phí tín dụng từ đó tác
động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế . Còn sự biến động của
tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động kinh tế từ hoạt động xuất nhập khẩu đến
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước. Vì vậy, Lãi suất và tỷ giá hối đoái là một trong
những công cụ chủ yếu của ngân hàng trung ương thực thi về chính sách tiền tệ của mình. Vậy
lãi suất và tỷ giá hối đoái có mối quan hệ như thế nào? Sự ảnh hưởng của chúng ra sao đối với
thị trường tài chính tiền t ệ? Và khi vận hành tốt hay không tốt hai công cụ này thì kết quả tạo ra
như thế nào cho trị trường tài chính tiền tệ? Đó là những vấn đề chúng ta cần giải quyết khi xem
xét chúng. Vậy, Chúng ta cần tìm hiều, tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và
lãi suất và xem xét những nhận định của các nhà nghiên cứu về vấn đề này như thế nào?
PHẦN 2
NỘI DUNG
I. 2.1. Tỷ giá hối đoái.
II. 2.1.1. Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái là giá cả một đơn vị tiền tệ của quốc gia này được biểu diễn qua số đơn vị
tiền tệ của quốc gia khác xác định bằng một thời gian và không gian cụ thể.
III. 2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái:.
IV. 2.1.2.1. Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái
Cán cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch
nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ.
Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua
hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm
tỷ giá hối đoái giảm.
Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho
đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái
tăng.
Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ
giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân
tố, đó chính là cán cân thương mại.
Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái
sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm
giá.
2.1.2.2. Đầu tư ra nước ngoài
Cư dân t rong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng
nhà máy, thành lập các doang nghiệp...) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu...).
Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ
mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ
tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước,
làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm.
Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào một
nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn
chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu
tư ra nước ngoài ròng âm.
V. 2.1.2.3. Lạm phát ảnh hưỏng đến tỷ giá hối đoái
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng
hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước
ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nước.
Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì
giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng.
Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu
giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng
đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối
đoái tăng nhanh hơn.
Trên thị trường tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ
các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường
hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương
đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá
một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
VI. 2.1.2.4. Sự can thiệp của Chính phủ
Bất kỳ một chính sách nào của Chính phủ mà có tác động đến tỷ lệ lạm phát, thu nhập thực
tế hoặc mức lãi suất trong nước đều có ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái.
VII. 2.1.2.5. Tâm lý số đông
Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác
nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối.
Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại
bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Nếu mọi người kỳ
vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ
tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhạy cảm với thông tin cũng như các chính
sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để
giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh
chóng.
Ngoài ra, tỷ giá hối đoái còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: khủng hoảng
kinh tế, ngoại hối, t ín dụng, chiến tranh, thiên tai,….
VIII. 2.2. Lãi suất
IX. 2.2.1. Khái niệm
Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng giá cả của quan hệ vay
mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng hình thức tài sản
khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người vay m ột khoản tiền dôi ra ngoài số
tiền vốn gọi là tiền lãi. Vậy: tỷ lệ phần trăm của số t iền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
X. 2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến lãi suất. T rong đó thường đề
cập đến 5 nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất như sau:
XI. 2.2.2.1. Ảnh hưởng cung cầu của quỹ cho vay
Sự thay dổi cung – cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm
thay đổi mức lãi suất trên thị trường, tuy mức độ biến động của lãi suất ít nhiều phụ thuộc vào
các quy định của chính phủ và ngân hàng trung ương.
Chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền
kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ.
XII. 2.2.2.2. Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu
hướng tăng lên. Xu hướng này xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
cho thấy để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải
tăng lên tương ứng.
2.2.2.3. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách
Bội chi ngân sách trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu của quỹ cho vay tăng
làm tăng lãi suất.
Bội chi ngân sách tăng chính phủ thường gia tăng việc phát hành trái phiếu.
Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm, lãi
suất thị trường vì vậy mà tăng lên.
XIII. 2.2.2.4. Những thay đổi về thuế
Thuế thu nhập cá nhân và lợi tức thuế công ty tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác
động đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một
phần thu nhập của các cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ t ín dụng hay những người tham gia
kinh doanh chứng khoán.
Thông thường, ai cũng quan tâm đến thu nhập thực tế hay lợi nhuận sau thuế hơn là thu
nhập danh nghĩa. Do vậy để đảm bảo thu nhập thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất
cho vay những thay đổi của thuế.
XIV. 2.2.2.5. Những thay đổi trong đời sống xã hội
Sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội.
XV. 2.3. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất
XVI. 2.3.1. Sự tác động của tỷ giá hối đoái đến lãi suất
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do
quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như
giá cả, thuế… trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia nào, nếu muốn
tồn tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại quốc tế.
Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước tỷ giá hối đoái giảm, xuất khẩu tăng lên
nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội
tệ kết quả là làm lãi suất tăng lên.
Với cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp hơn nếu tỷ
giá hối đoán tăng lên, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một nước so
với các nước khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong nước sẽ tăng lên và
ngược lại.
C
hính
sách tỷ
giá: bao
gồm các
biện
pháp
liên
quan
đến việc hình thành quan hệ về sức mua giữa tiền của nước này so với một ngoại tệ khác, nhất là
đối với các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.
Tỷ giá sẽ tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa của một
nước. Khi nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng giá của hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng
chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng hóa trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu
tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm. Mặt khác, khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng
để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.
Vì vậy khi thấy đồng tiền của nước mình sụt giá, ngân hàng trung ương sẽ theo đuổi một
chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, giảm bớt cung tiền tệ, nâng lãi suất trong nước, làm cho đồng
tiền của mình vững mạnh.
Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu, nền công nghiệp
trong nước có thể bị sự cạnh tranh của nước ngoài tăng lên, kích thích nhập khẩu. Lượng tiền tệ
tăng do với một tỷ giá thấp, với một lượng vốn đầu tư nhất định, tài sản đầu tư sẽ nhiều hơn, kích
thích đầu tư vào sản xuất, lãi suất tăng lên. Như vậy khi có một sự cạnh tranh giữa nền công
nghiệp trong nước với công nghiệp nước ngoài tăng lên, có thể gây áp lực buộc ngân hàng trung
ương phải theo đuổi một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn nhằm hạ thấp tỷ giá.
XVII. 2.3.2. Sự tác động của lãi suất lên tỷ giá hối đoái
Trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng
như là một công cụ góp phần điều t iết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước,
tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá, điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường và
giá trị đối ngoại của nội tệ. Điều này không những tác động đến đầu tư phát triển kinh tế mà còn
tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với
nước ngoài.
Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các
luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong nước cao hơn so với lãi suất nước
ngoài hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những luồng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển lượng hóa
ngoại tệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn. Điều này làm tăng cung
ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ
có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ tăng giá. Trong trường hợp ngược lại,
nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất nươc ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có
xu hướng tăng giá trên thị trường hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.
Về cơ bản, những trình bày trên đây chỉ đúng với các nền kinh tế mở (open economy), nơi
có đồng tiền chuyển đổi và tự do lưu chuyển vốn. Về mặt lý thuyết , nếu lãi suất nước ngoài cao
hơn, thì dẫn đến xuất khẩu tiền tệ, và trong trường hợp ngược lại, là nhập khẩu tiền tệ. Thực
chất, những khác biệt về lãi suất chỉ dẫn tới sự chuyển đổi vốn, kết quả là dẫn tới sự thay đổi về
tỷ giá, nếu dự đoán về lợi nhuận, lãi suất thu được do đầu tư tiền t ệ không được đảm bảo hay do
việc nhận tín dụng bằng ngoại tệ không cân bằng, bởi những mất mát về tỷ giá. Một khi còn tồn
tại những mối lo ngại như vậy, thì ngay cả khi có sự khác biệt lớn về lãi suất cũng không thể dẫn
tới sự chuyển đổi vốn đến mức giảm lãi suất.
Dự đoán về một quá trình phát triển tỷ giá đảo ngược để dẫn tới chênh lệch về lãi suất
thường xuất hiện khi xem xét lãi suất danh nghĩa của một đồng tiền chứ không phải là lãi suất
thực, tức là khi chiết trừ tỷ lệ lạm phát thì đồng tiền với lãi suất danh nghĩa thấp lại có lãi suất
thực cao hơn và ngược lại. Thí dụ, đồng tiền A có lãi suất 10%/năm và tỷ lệ tăng giá là 9%/năm;
đồng tiền B có lãi suất là 8%/năm và tỷ lệ lạm phát là 5%/năm, như vậy lãi suất danh nghĩa của
đồng tiền A cao hơn của đồng tiền B là 2%/năm, nhưng lãi suất thực thì ngược lại, lãi suất của
đồng tiền B lại cao hơn so với đồng tiền A là 2%/năm. Theo cách phân tích này, chỉ có lãi suất
thực mới tạo ra được sự nhập vốn; ngược lại, khi đồng tiền có lãi suất thực thấp thì sẽ dẫn tới
hiện tượng nhận tín dụng, bởi vì người ta hy vọng rằng, khi thanh toán tín dụng người ta chỉ cần
phải chi phí ít đơn vị nội tệ để mua lại số ngoại tệ đã vay, thậm chí còn ít hơn cả khi chưa trao
đổi giá trị tín dụng.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mức lãi suất cao là công cụ để chống lạm phát và
nó thường được sử dụng để đáp ứng yêu cầu can thiệp vào nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách lãi
suất còn được sử dụng vào mục đích điều chỉnh giá trị đối ngoại của nội tệ. Phương pháp dùng
lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể nó là phương pháp thường được sử
dụng với mong muốn có những thay đổi cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này đến
tỷ giá hối đoái như sau: Trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khi lãi
suất tái chiết khấu thay đổi, sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó,
tác động đến xu hướng dịch chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn (trong
cán cân thanh toán quốc tế) hoặc ít nhất cũng làm những người sở hữu vốn trong nước chuyển
đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối
đoái. Cụ thể, nếu lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một đồng vốn vay ngắn hạn trên thị trường
thế giới sẽ đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh
hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi cao hơn. Kết quả là tỷ giá giảm
(đồng nội tệ tăng). Trong trường hợp ngược lại, nếu muốn tỷ giá tăng thì sẽ giảm lãi suất tái chiết
khấu.
XVIII. 2.3.3. Mối tương quan giữa tỷ giá hối đoái và lãi suất
Lãi suất và tỷ giá hối đoái chỉ có m ối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián t iếp,
chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá
không giống nhau. Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi
suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt,
có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại
hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt
quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động
của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo ( hạ
xuống chẳng hạn). Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng
khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ t rong nước không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện
được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số
vốn chứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều. Để minh hoạ vấn đề này, có thể sử dụng hai
ví dụ điển hình trong lịch sử.
Một là, trước thế chiến 2, Anh là một trong những nước điển hình về việc sử dụng lãi suất
chiết khấu để can thiệp vào thị trường hối đoái và đã thu được nhiều kết quả đáng kể, do nền
kinh tế và tiền tệ nước Anh lúc đó khá ổn định.
Hai là, có thể lấy cuộc khủng hoảng USD thời kỳ 1971-1973 làm ví dụ. Tổng thống Mỹ
Nixon, đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất
chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này, mặc
dù lãi suất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần thị trường
Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và
Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện chính sách lãi suất thấp, vì lúc đó USD đang đứng bên
bờ của nguy cơ mất giá.
Như vậy, chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối
với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ
nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước.
Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình tiền tệ của các
nước đều đại thể như nhau, thì phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi
suất cao. Do vậy, hiện nay chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Đồng thời, can
thiệp vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn) đủ mạnh, tự do
và linh hoạt: tài khoản vốn đã được mở cửa.
XIX. PHẦN 3
XX. KẾT LUẬN
Lãi suất và tỷ giá hối đoái là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ hữu
hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có m ối quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch định của nền kinh tế. Sự khập khễnh giữa chính sách lãi
suất và tỷ giá có thể gây ra những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát
“chảy máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư nước ngoài…Vì vậy, trong quản
lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực
trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Sự đ