Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và ngưỡng bội chi

Như chúng ta đã biết ,bội chi ngân sách là một vấn đề mà các quốc gia đều gặp phải .Việc Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó k hông chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy mỗi quốc gia đều có những biện phápthích hợp nhằm khắc phục bội chi ngân sách đưa bội chi đến một mức nhất định .Chính phủ Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ . Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt Nam. Làm sao vừa kiềm chế được lạm phát, vừa cân đối ngân sách nhà nước ở mức hợp lý là một bài toán rất khó. Học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới thì có thể nói lạm phát mục tiêu chính là hướng đi tương lai cho tình trạng kinh tế Việt Nam. Duy trì lạm phát thấp và ổn định nên trở thành mục tiêu hàng đầu trong việc sử dụng ngânsách nhà nước Vậy xử lý bội chi NSNN như thế nào để ổn định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay? các giải pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam hiên nay là gì ? Những ưu nhược điểm của các giải pháp đó đối với sự pháp triển kinh tế Việt Nam hiên nay ?. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng đặt ra là liệu Việt Nam hiện nay đã có đủ điều kiện áp dụng k huôn khổ về ngưỡng bội chi và lam phát mục tiêu hay chưa? Đây cũng là mục tiêu mà nhóm 28 đặt ra khi chon đề tài: “Tóm lược mối quan hệ giữalạm phat mục tiêu và ngưỡng bội chi” nhằm xem xét và đánh giá k hả năng áp dungjlamj phát mục tiêu và ngưỡng bội chi ngân sách ở Việt Nam.

pdf27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và ngưỡng bội chi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH Khoa: KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN LỚP:KT002-VB2 Lý Thuyết Tài Chính – Tiền Tệ Tiểu Luận Số 7: TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ NGƯỠNG BỘI CHI Giảng Viên Hướng Dẫn Thầy: Trương Minh Tuấn Nhóm SV thực hiện: Nhóm 28 1.Dương Thị Hồng Tân 2.Trần Nguyễn Ngọc Vân 3.Nguyễn Thị Lộc 4.Đinh Thị Thu Thảo Ngày 06 Tháng 11 năm 2014 1 LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết ,bội chi ngân sách là một vấn đề mà các quốc gia đều gặp phải .Việc Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy mỗi quốc gia đều có những biện phápthích hợp nhằm khắc phục bội chi ngân sách đưa bội chi đến một mức nhất định .Chính phủ Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ . Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt Nam. Làm sao vừa kiềm chế được lạm phát, vừa cân đối ngân sách nhà nước ở mức hợp lý là một bài toán rất khó. Học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới thì có thể nói lạm phát mục tiêu chính là hướng đi tương lai cho tình trạng kinh tế Việt Nam. Duy trì lạm phát thấp và ổn định nên trở thành mục tiêu hàng đầu trong việc sử dụng ngânsách nhà nước Vậy xử lý bội chi NSNN như thế nào để ổn định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay? các giải pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam hiên nay là gì ? Những ưu nhược điểm của các giải pháp đó đối với sự pháp triển kinh tế Việt Nam hiên nay ?. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng đặt ra là liệu Việt Nam hiện nay đã có đủ điều kiện áp dụng khuôn khổ về ngưỡng bội chi và lam phát mục tiêu hay chưa? Đây cũng là mục tiêu mà nhóm 28 đặt ra khi chon đề tài: “Tóm lược mối quan hệ giữalạm phat mục tiêu và ngưỡng bội chi” nhằm xem xét và đánh giá khả năng áp dungjlamj phát mục tiêu và ngưỡng bội chi ngân sách ở Việt Nam. 2 NỘI DUNG I. Cơ sở lí thuyết 1. Lạm phát mục tiêu 1.1 Khái niệm lạm phát và lạm phát mục tiêu Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi. Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng hàng hoá ít hơn so với năm trước. Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ chính sách tiền tệ mà theo đó, NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung hạn về lạm phát và NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này. Một số tác giả cho rằng, lạm phát mục tiêu chủ yếu sử dụng dự báo lạm phát như một hướng dẫn trung gian đối với chính sách tiền tệ và vân hành chính trong một khuôn khổ minh bạch để làm tăng tính trách nhiệm. Mục tiêu lạm phát được xác định rỏ ràng về mặt định lượng bằng một con số hoặc một khoảng giá trị xác định. Ngân hàng Trung ương cần thiết lập hay phương pháp dự báo lạm phát thông qua sử dụng một số các chỉ số chứa đựng các thông tin về lạm phát trong tương lai, lộ trình thực hiện- khoảng thời gian để có thể đạt được lạm phát mục tiêu. Về kỹ thuật việc xác định lạm phát mục tiêu bao gồm các bước: - Lựa chọn loại chỉ số giá (dựa trên mức độ giá cả hoặc tỷ lệ lạm phát). - Hình thành mục tiêu. - Tính toán xu hướng lạm phát năm sau. 3 Ưu việt cơ bản nhất của lạm phát mục tiêu là nó không bị can thiệp bởi các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3 hay tỷ giá). Theo khuôn khổ chính sách tiền tệ (CSTT) thì lạm phát mục tiêu phụ thuộc vào 4 yếu tố: - Mục tiêu lạm phát là cái neo cho CSTT. - Sự độc lập của Ngân hang Trung ương đặt lạm phát mục tiêu. - Khả năng dự báo và đối phó với lạm phát. - Mức độ minh bạch và tính chịu trách nhiệm về CSTT. Khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu cần đảm bảo sự kết hợp về thể chế và điêu hành: - Mục tiêu lạm phát phải được công bố công khai. - Cần có cam kết ổn định tỷ giá. - Điều hành CSTT sử dụng dự bao lạm phát làm mục tiêu hành động. - Cần có sự giải thích rỏ ràng về CSTT. - Xác định rõ ràng trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương. 1.2. Tình hình thực hiện lạm phát mục tiêu ở thế giới. Có thể nói, mọi đọng thái bất thường và bất hợp lý của chỉ số lạm phát đều để lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế Lạm phát đồng tiền giảm giá trị là tin xấu đối với hầu hết người dân. Lạm phát bóp méo gía cả, làm giảm giá trị các khoản tiết kiệm, không khuyến khích đầu tư, kích hoạt chuyển dich vốn vào các tài sản bằng ngoại tệ, đầy tư kim loại quý và bất động sản, hạn chế tăng trưởng kinh tế và tới cực điểm nó có thể gây ra những bất ổn về mặt xã hội và chính trị. Trong khi lạm phát cao là cơn ác mộng thì giảm phát là nổi ám ảnh của Chính phủ các nước. Theo định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), giảm phát là sự giảm kéo dài của chỉ số giá chung như chỉ số giá tiêu dung hoặc chỉ số giảm phát GDP. Gần như hiện tượng có tính quy luật (Trung Quốc là một ngoại 4 lệ), giảm phat lớn kéo theo suy thoái hoặc trì trệ nền kinh tế, làm cho tổng cầu, đặc biệt là phần chi tiêu (C) và đầu tư (I) bị giảm sút. Giảm phát làm tăng giá trị của các khoản nợ danh nghĩa và nếu quá mức có thể dẫn đến tình trạng vở nợ hay phá sản các con nợ, cuối cùng gây tác hại cho nền kinh tế. Chính vì các tác hại trên của lạm phát nên việc kiểm soat lạm phát ở múc độ vừa phải đã trở thành một trong những mục tiêu lớn của nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên mục tiêu kiềm chế lạm phát không có nghĩa là phải đưa lạm phát ở mức bằng không tức là nền kinh tế không có lạm phát mà phải duy trì múc lạm phát ở một mức độ nào đó phù hợp với nề kinh tế vì lạm phát không phải hoàn toàn là tiêu cực, nếu như một quốc gia nào đó có thể duy trì được mức lạm phát vừa phải và kiềm chế, có lợi cho sự phát triển kinh tế thì ở quôc gia đó lạm phát không còn mối nguy hại cho nền kinh tế nữa mà nó đã trở thanh công cụ đắc lực giúp điều tiết và phát triển nền kinh tế một cách hiệu quả. Đó chính là lạm phát mục tiêu Trong vòng 2 thập kỷ qua, nhiều nước công nghiệp và các nền kinh tế thị trường nổi áp dụng lạm phát mục tiêu. Các tác giả cho rằng lí do chung để các nước đưa ra áp dụng lạm phat mục tiêu là do các nước gặp khó khăn trong việc sử dụng các neo danh nghĩa khác ( mục tiêu tỷ giá và mục tiêu tiền tệ), cũng như mong muốn giảm tỷ lệ lạm phát và neo kỳ vọng lam phát thông qua mục tiêu đơn giản có thể quan sát được. Một loạt nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF), bao gồm Masson, Savastan, và Sharma ( 1997), Schaechter, Stone và Zelmer (2002), carare và các cộng sự (2002) và Stone (2003) tập trung vào nhưng khó khăn mà các nền kinh tế mới nổi phải đối mặt nếu các nước này áp dụng lạm phát mục tiêu. Các tác giả đưa ra các điều kiện tiên quyết cần phải đáp ứng trước khi áp dụng lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, giữa các tác giả chưa có sự thống nhất về các điều kiện cần được đáp ứng trước khi lạm phát mục tiêu được áp dụng vào các nền kinh tế mới nổi. Andrea Schaechter, Mark R.Stone, và Mark Zelmer (2000) nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu của các nước công nghiệp và các 5 nước thị trường mới nổi và đưa ra nhận định là những nền tảng để lạm phát mục tiêu toàn phần/ hoàn toàn (FFI – Full-fledged Inflation Targeting) được thiết lập thành công bao gồm: vị thế tài chính vững mạnh và ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc; hệ thống tài chính phát triển tốt; độc lập về công cụ ngân hàng trung ương và một chỉ thị/ tuyên bố nhằm đạt ổn định giá cả; sự am hiểu cơ chế truyền tải các hoạt động tiền tệ và lạm phát; phương pháp luận hợp lý xây dựng dự báo lạm phát ; và tính minh bạch của chính sách tiền tệ nhằm thiết lập trách nhiệm giải trình và sự tín nhiệm. Những yếu tố này không cần phải thiết lập tất cả trước khi các nước bắt đầu chuyển đổi sang khuôn khổ lạm phát mục tiêu hoàn toàn. Colombia bắt đầu thực hiện lạm phát mục tiêu và năm 1991 và Hiến pháp cũng như Luật định thiết lập một khuôn khổ luật pháp phù hợ với mục tiêu ổn định giá cả. Theo đó, Ngân hàng trung ương phải công bố mục tiêu lạm phát mổi năm một lần và được yêu cầu đệ trình một báo cáo ra Quốc hội hai lần mổi năm. Nói chung, để thực hiện được lạm phát mục tiêu, một số điều kiện tối thiểu phải được đáp ứng đó là: một Ngân hàng Trung ương độc lập, cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, trách nhiệm giải trình và tính minh bạch cao, báo cáo lạm phát hàng quý giải thích những quyết định của chính sách tiền tệ. CH Séc, Ba Lan và Hungary đã từ bỏ cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và chuyển sang lạm phát mục tiêu. Các quốc gia này thường chẹch khỏi lạm phát mục tiêu vì các nền kinh tế chuyển đổi thường chịu các cú sốc nhiều hơn và do đó chệch khỏi mục tiêu lạm phát xảy ra thường xuyên hơn so với các nền kinh tế phát triển. Nhưng việc giảm dần tỷ lệ lạm phát tiến triển rất khả quan và chiến lược chính sách tiền tệ hướng vào lam phát mục tiêu đã đem lai nhiều lợi ích cho các quốc gian này. Trong khi ở Đông Á, lạm phát mục tiêu bắt đầu được áp dụng vào đầu những năm 2000 dưới tác động của cuộc khủng hoảng taì chính Châu Á năm 1997. Triển vọng áp dụng lạm phát mục tiêu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như giải quyết như thế nào với cú sốc giá dầu tăng và hậu quả của cú sốc tài chính toàn cầu. 6 1.3. Xác định chỉ số lạm phát mục tiêu Vấn đề xác định chỉ số lạm phát mục tiêu cũng có sự thay đổi giữa các nước. Những khác nhau cơ bản liên quan đến 3 thông số chính của mục tiêu: tầm nhìn mục tiêu, chỉ số lạm phát mục tiêu và tính linh hoạt của chỉ số lạm phát mục tiêu. - Tầm nhìn mục tiêu. Tầm nhìn mục tiêu ngụ ý nói về quãng thời gian mà quốc gia có thể đạt được và duy trì mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Hiện nay có hai phương pháp tính toán được xem là tối ưu: phương án thứ nhất, lạm phát mục tiêu được xem như là một chính sách giảm thiểu tối đa gây sốc cho nền kinh tế. Phụ thuộc vào từng hiện trạng của nền kinh tế mà tầm nhìn mục tiêu thường dao động từ 24 đến 36 tháng. Phương án thứ hai, lạm phát mục tiêu dựa trên quy luật kinh nghiệm. Phương pháp này phụ thuộc ở tầm nhìn "sâu'' vào tương lai của NHTW cũng như các vấn đề thay đổi, của nền kinh tế mà như quan tâm, hay nói cách khác là số lượng'' giai đoạn mà NHTW có thể dự báo về tình trạng phát triển của nền kinh tế. Ngoài ra, việc xác định tầm nhìn mục tiêu phụ thuộc rất nhiều tỷ lệ lạm phát tại thời điểm bắt đầu thực hiện cơ chế lạm phát mục tiêu. Ví dụ như Canađa và Niu Dilân; bước thứ nhất, họ bắt đầu sử dụng lạm phát mục tiêu như một liều thuốc chống lạm phát, độ dài mục tiêu là 18 tháng. Bước tiếp theo, mục tiêu là tiếp tục đạt được mức lạm phát thấp hơn với khoảng thời gian là 12 tháng đối với NiuDilân và trong 18 tháng đối với Canađa. Sau khi đạt được thành công về giá trị của chỉ số có lợi cho nền kinh tế trong kế hoạch dài hạn, chỉ số mục tiêu nên được duy trì ở mức cố định trong một quãng thời gian. Năm năm là khoảng thời hạn mà NHTW của Niu Dilân đề ra, tại Canađa cũng tương tự như vậy - đây là khoảng thời gian cần thiết để hiểu rõ hơn chuyển động của nền kinh tế trong điều kiện lạm phát thấp và qua đó nói lên tính ổn định giá cả trên thực tế. Chỉ số giá cả. Thực tế hầu hết các nước khi đánh giá lạm phát đều sử dụng chỉ số giá cả tiêu dùng (CPI) làm công cụ nền tảng, bởi CPI có những lợi thế riêng như: tính quảng bá tương đối rộng đối với xã hội, được công bố và tính 7 toán thường xuyên. Nhưng bên cạnh đó, NHTW không hiếm khi đưa ra chỉ số giá cả khác mà nó chính là CPI hoặc CPI đã loại trừ một số yếu tố - chỉ số điều chỉnh này thường được gọi là chỉ số lạm phát cơ bản (core inflation). Thông thường, CPI bao gồm những nhóm hàng hóa và dịch vụ. Có nhiều mặt hàng mà giá cả của nó là những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTW. Vì nguyên nhân này nên trong quá trình kiểm soát, NHTW cần điều chỉnh hoặc loại bỏ khỏi CPI những nhóm mặt hàng hoặc dịch vụ mà giá của chúng hoặc do chính phủ điều chỉnh hoặc thường bị dao động, hay nói cách khác, nó không phụ thuộc vào tác động của NHTW. Trên thực tế, ngoài việc điều chỉnh giá của chính phủ, thì thay đổi của thuế gián thu, giá lương thực - thực phẩm hay một số mặt hàng mà giá cả có tính thay đổi thường xuyên hoặc ít nhạy cảm với các công cụ của CSTT cũng được rất nhiều nước, bao gồm cả các nước công nghiệp phát triển, loại bỏ khỏi CPI. Các nhà phân tích kinh tế cũng nhấn mạnh rằng trong mọi trường hợp, NHTW và chính phủ khi phân tích các yếu tố dựa trên (CPI) cần cân nhắc đến ảnh hưởng của chính phủ cũng như tác động của công cụ CSTT đến mục tiêu. Theo kinh nghiệm thế giới, rất nhiều nước lựa chọn 2%/năm là chỉ số lạm phát mục tiêu cho quốc gia. Chiều rộng biên độ. Như đã nói ở trên, chỉ số lạm phát mục tiêu luôn phản ánh ý đồ cũng như phương hướng điều hành của NHTW. Trên mức độ lý thuyết ''ổn định giá cả" cần phù hợp với mức độ lạm phát bằng không, tuy nhiên trên thực tế rất nhiều NHTW hiểu rằng ''ổn định giá cả'' là khi tình trạng kinh tế có mức lạm phát không cao, theo quy luật, nó nằm trong khoảng 2- 3%/năm. Lựa chọn này được hình thành trên một loạt các lý luận về sự bất hợp lý đối với nền kinh tế khi tỷ lệ lạm phát âm và lợi ích của một tỷ lệ lạm phát lớn hơn 0 và ở mức thấp. Mức lạm phát này (2-3%) nó sẽ giúp cho nền kinh tế có khả năng thoát khỏi tình trạng suy thoái cũng như tạo sự thay đổi cần thiết vừa phải cho hàng hoá) từ phương diện nâng cao chất lượng sản phẩm. 8 Một sự khác nhau cơ bản nữa giữa các nước trong việc xác định chỉ số lạm phát mục tiêu là khoảng biên độ cho phép đối với lạm phát thực tế. Có một số quốc gia ấn định chỉ số lạm phát mục tiêu là một chỉ số như tại Phần Lan, Ngân hàng Phần Lan cố gắng đạt được giá trị của chỉ số mục tiêu là 2%, nhưng có quốc gia lại không chọn giá trị của mục tiêu 1à một chỉ số mà là một khoảng biên độ, như tại Niu Dilân (0-3%), Canađa (1-3%) và Vương quốc Anh (1-4%). Tại Tây Ban Nha, chỉ số lạm phát mục tiêu lại được cố định ở ranh giới cao nhất (mức trần) của lạm phát (<3%). Như vậy, phương án lựa chọn biên độ phụ thuộc vào khả năng kiểm soát lạm phát của NHTW và các quốc gia cần tìm ra cho mình một biên độ tối ưu: nếu biên độ hẹp - rất khó duy trì; biên độ rộng - phản ánh năng lực yếu kém của NHTW. 2. Ngân sách nhà nước,vấn đề bội chi ngân sách nhà nước và ngưỡng bội chi: 2.1.Khái niệm ngân sách nhà nước: Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và có hiệu lực từ 01/01/2004 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Trong hệ thống tài chính, NSNN là bộ phẩn chủ đạo, là điều kiện cật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước do hiến pháp quy định, nó còn là công cụ quan trọng của nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô của nền kinh tế xã hội, muốn sử dụng tốt công cụ ngày phải nhận thức được những vấn đề lí luận cơ bản của NSNN. Mặt khác NSNN còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa một bên là NN một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Những khoản thu nộp và cấp phát qua quỹ NSNN là các quan hệ được xác 9 định trước, được định lượng và NN sử dụng chúng để điềuchỉnh vĩ mô nền kinh tế. Từ những phân tích trên, ta có thể xác định được ‘’NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ chung của NN khi NN tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của NN trên cơ sở luật định’’ 2.2 Đăc điểm của NSNN Thứ nhất:Tạo lập và sử dụng NSNN gắn liền quyền lực với việc thực hiện các chức năng của NN, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa NSNN với các khoản tài chính khác. Các khoản thu NSNN đều mang tính chất pháp lý, còn chi NSNN mang tính cấp phát ‘’không hoàn trả trực tiếp’’. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế-Xã hội NN đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho NN với tư cách là một chủ thể. Thứ hai: NSNN luôn gắn chặt với NN chứa đựng lợi ích chung và công, hoạt động thu chi NSNN là thể hiện các mặt KT-XH của NN, dù dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa NN và XH thể hiện qua các khoản cấp phát từ NSNN cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa NN và XH dó đó thể hiện ở phạm vi rộng lớn. Thứ ba: Cũng như các quỹ tiền tệ khác NSNN cũng có đặc điểm riêng của một quỹ tiền tệ, nó tập chung lớn nhất của NN là nguồn tài chính nên NSNN là giá trị thặng dư của xã hội do đó nó mang đặc đIểm khác biệt. Thứ tư: Hoạt động thu cho của NSNN được thể hiện theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rút ngắn khoản thời gian giữa người giàu và nghèo để công bằng xã hội 10 2.3. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước và ngưỡng bội chi: Bội chi Ngân sách Nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó. Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về Ngân sách Nhà nước hằng năm như sau: Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm Tổng Thu Tổng Chi A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí). B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước). D. Chi thường xuyên. E. Chi đầu tư. F. Cho vay thuần (= cho vay mới - thu nợ gốc). C. Bù đắp thâm hụt - Viện trợ. - Lấy từ nguồn dự trữ. - Vay thuần (= vay mới - trả nợ gốc). Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E + F Công thức tính bội chi Ngân sách Nhà nước của một năm sẽ như sau: Bội chi Ngân sách Nhà nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C (khoản bù đắp thâm hụt) Bội chi ngân sách Nhà nước có thể do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có thể nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Vậy ngưỡng bội chi là giới hạn bội chi ngân sách nhà nước ở mức qui định cho phép. 11 2.4 Phân loại thâm hụt ngân sách Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thánh hai loại: Thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kì. Thâm hụt cơ cấu Là các khoản thâm hụt được quyết định bởi nhưng chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi cho giáo dục-đào tạo, quốc phòng… Thâm hụt chu kì: Là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng cảu chu kì kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấy của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn dến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên. 2.5 Nguyên nhân của bội chi ngân sách. Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN: - Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu
Luận văn liên quan