Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến đổi không ngừng, ngày càng có nhiểu rủi ro xảy
ra không thể lường trước. Do đó, việc đưa ra các chiến lược, kế hoạch quản trị để phòng
ngừa rủi ro là một xu hướng tất y ếu của tất cả các lĩnh vực, ngành nghề trên thế giới. Trong
thế giới tài chính, vấn đề này lại càng nóng hổi hơn khi những rủi ro này có thể ảnh hưởng
đến sự sống còn của một định chế tài chính mà lĩnh vực ngân hàng là một điển hình. Việc
quản trị rủi ro của một ngân hàng thương mại cổ phần trong nước đã khó thì vấn đề này đối
với một Ngân hàng quốc tế lại khó khăn hơn. Là một lĩnh vực ngân hàng có hoạt động phát
triển liên quan trực tiếp đến ngoại tệ, việc quản trị rủi ro được thực hiện với rất nhiều dạng
thức khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay, với thế giới tài chính ngày một phát triển, một các thức
quản trị rủi ro mới đang được biết đến và được ưa chuộng bởi các ngân hàng quốc tế. Đó là
sử dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro. Vậy các ngân hàng quốc tế đã sử dụng
các công cụ phái sinh như thế nào để quản trị rủi ro của mình?
32 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3149 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tổng quan về các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro Ngân hàng Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIỂU LUẬN
Tổng quan về các công cụ phái sinh trong
quản trị rủi ro Ngân hàng Quốc tế
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến đổi không ngừng, ngày càng có nhiểu rủi ro xảy
ra không thể lường trước. Do đó, việc đưa ra các chiến lược, kế hoạch quản trị để phòng
ngừa rủi ro là một xu hướng tất yếu của tất cả các lĩnh vực, ngành nghề trên thế giới. Trong
thế giới tài chính, vấn đề này lại càng nóng hổi hơn khi những rủi ro này có thể ảnh hưởng
đến sự sống còn của một định chế tài chính mà lĩnh vực ngân hàng là một điển hình. Việc
quản trị rủi ro của một ngân hàng thương mại cổ phần trong nước đã khó thì vấn đề này đối
với một Ngân hàng quốc tế lại khó khăn hơn. Là một lĩnh vực ngân hàng có hoạt động phát
triển liên quan trực tiếp đến ngoại tệ, việc quản trị rủi ro được thực hiện với rất nhiều dạng
thức khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay, với thế giới tài chính ngày một phát triển, một các thức
quản trị rủi ro mới đang được biết đến và được ưa chuộng bởi các ngân hàng quốc tế. Đó là
sử dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro. Vậy các ngân hàng quốc tế đã sử dụng
các công cụ phái sinh như thế nào để quản trị rủi ro của mình? Nhóm chúng tôi xin làm rõ
trong đề tài sau: “Tổng quan về các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro Ngân hàng
Quốc tế”
3
CHƯƠNG 1: TỒNG QUAN VỀ CÔNG CỤ PHÁI SINH TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO
NHQT
I. LÝ THUYẾT VỀ CÁC LOẠI RỦI RO VÀ CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
PHÁI SINH
1.1 Lý thuyết về các loại rủi ro
Rủi ro luôn tồn tại trong bất kỳ hoạt động kinh tế nào. Việc quản trị rủi ro có
tầm quan trọng đặc biệt đối với các tổ chức tài chính trung gian vì sự tồn tại của
họđược dựa trên việc họ có được những lợi thế hiệu quả so với các tác nhân kinh tế
khác khi đảm nhận và quản trị rủi ro. Những lợi thế hiệu quả, giúp các ngân hàng
khắc phục việc bất đối xứng thông tin giữa người đi vay và người cho vay trên thị
trường tài chính.
Các rủi ro mà các ngân hàng quốc tế đối mặt có thể được phân thành nhiều
loạikhác nhau (risk buckets) dựa vào các nguồn gốc hình thành lên nó, bao gồm
những rủi ro chính sau:
- Rủi ro thị trường: gồm rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối
- Rủi ro thanh khoản
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro tác nghiệp
- Rủi ro khác…
Vì vậy, rủi ro xảy ra khi một người đi vay không đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ
(rủi ro tín dụng) có thể được phân tích tách biệt với rủi ro từ biến động tỷ giá hối đoái
đến lợi nhuận của một ngân hàng (rủi ro tỷ giá hối đoái).Khi phân tích rủi ro, người ta
thường tách biệt các rủi ro ra. Tuy nhiên, các loại rủi ro khác nhau không phải luôn
luôn được xem xét trong sự độc lập. Trong trường hợp của các ngân hàng quốc tế,
các loại rủi ro có liên quan và do đó không nên xem xét trong sự độc lập. Ví dụ, trong
việc cho vay Eurocurrency, tỷ lệ nợ xấu bị ảnh hưởng bởi sự biến động tỷ giá hối
đoái. Do đó việc kiểm định rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng trong sự độc lập sẽ
đánh giá thấp mức độ thực sự của những rủi ro mà một ngân hàng quốc tế đối mặt.
1.1.1 Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường là rủi ro thiệt hại theo thời gian do một số yếu tố rủi ro như
thay đổi lãi suất, tiền tệ và chứng khoán. Rủi ro thị trường có thể được cấu thành bởi
nhiều loại rủi ro nhưng quan trọng nhất là rủi ro về lãi suất. Thông thường nhất, rủi
ro thị trường có thể được hiểu như là một dạng của rủi ro kinh doanh. Nguồn gốc của
loại rủi ro này là những thay đổi trong giá cả thị trường (chẳng hạn như lãi suất
4
và tỷ giá hối đoái). Ngay cả các ngân hàng được hoàn toàn tập trung vào hoạt động
cho vay có thể đối mặt với rủi ro thị trường. Nếu một ngân hàng đã cho vay rất nhiều
cho một công ty đã đầu tư vào một loạt các công cụ thị trường (một quỹ đầu tư bảo
hiểm rủi ro chẳng hạn) thì ngân hàng cho vay đã gián tiếp đối mặt với rủi ro thị
trường.
Rủi ro thị trường đã trở nên quan trọng trong hai thập kỷ qua. Điều này là hiển
nhiên cho sự tăng trưởng trong thu nhập ngoài lãi (có nghĩa là thu nhập mà không bắt
nguồn từhoạt động cho vay) khoảng thời gian này. Bảng 4.1 cho thấy xu hướng
ngày càng tăng giữa các ngân hàng thương mại của EU hướng tới một thị phần lớn
hơn thu nhập ngoài lãi. Trong năm 2006, gần một nửa thu nhập tất cả bắt nguồn từ
hoạt động phi tín dụng. Các hoạt động phi lãi suất ngày càng gia tăng, các ngân hàng
ngày càng gia tăng rủi ro thị trường. Tầm quan trọng ngày càng tăng của rủi ro thị
trường bắt nguồn từ hai lý do chính:
■ Thu nhập từ phí (như môi giới, tư vấn) và các hoạt động kinh doanh, có nguy cơ rủi
ro cao nhưng lại là một nguồn thu nhập béo bở.
■ Người ta thường cho rằng các quy định quốc tế về tỷ lệ dựtrữ bắt buộc mà các ngân
hàng phải thiết lập gây bất lợi cho vay hoạt động và khuyến khích các ngân hàng
kinh doanh không cho vay đến một mức độ lớn hơn.
1.1.1.1 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro tiềm ẩn có ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập hoặc vốn
phátsinh từ những biến động về lãi suất.
Rủi ro lãi suất phát sinh như là kết quả của sự mất cân đối về kỳ hạn và
khốilượng tài sản và nợ của các ngân hàng. Cốt lõi của các trung gian tài chính là
việcchuyển đổi tiền gửi ngắn hạn (nợ) vào tài sản dài hạn (các khoản vay). Tuy
nhiên,khi các ngân hàng bảo lãnh một khoản vay với một lãi suất cố định lãi suất
chothời gian dài hơn so với thời gian của vốn huy động được sử dụng đểtài trợ
chocác khoản cho vay, họ cơ bản 'đặt cược' vào chiều hướng của lãi suất trong
tươnglai. Một cuộc đặt cược lớn hơn, rủi ro lãi suất còn cao hơn cái mà nó thể hiện
5
bên ngoài.Nói đúng ra có hai loại rủi ro lãi suất tuỳ thuộc nguồn gốc của rủi ro
nằmbên tài sản hoặc bên nợ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Rủi ro tái cấp vốn
Đây là loại rủi ro phát sinh của một sự mất cân đối giữa các kỳ hạn của tài sản
và nợ cho các ngân hàng. Điển hình hoạt động tài chính trung gian, thời gian cho vay
thường dài hơn so với thời hạn của vốn huy động để cho vay. Do đó, kỳ hạn của tài
sản dài hơn kỳ hạn về của nợ. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ các chi phí của các
khoản nợ vượt quá lợi nhuận trên tài sản của họ tại một số thời điểm trong thời gian
hợp đồng cho vay. Ví dụ, một ngân hàng quốc tế cấp một khoản vay ba năm với một
khách hàng là công ty với lãi suất 8% mỗi năm. Để đơn giản, giả định rằng khoản vay
được tài trợ hoàn toàn bằng một khoản vay kỳ hạn 1 năm từ thị trường liên ngân
hàng với lãi suất 7% một năm. Trong năm đầu tiên, ngân hàng có một thặng dư lãi
suất ròng là 1%. Tuy nhiên, không chắc chắnngân hàng vẫn được hưởng những điều
kiện tương tự cho năm thứ hai. Giả sử, tỷ lệ mà tại đó các ngân hàng có thể huy động
vốn từ thị trường liên ngân hàng đã tăng đến 9% trong năm thứ hai. Trong trường hợp
đó, một thặng dư lãi suất âm trong năm thứ hai (-1%) sẽ mang đi hết lợi nhuận đã
kiếm được trong năm đầu tiên.
Rủi ro tái đầu tư
Đây là loại rủi ro phát sinh trong các tình huống khi mà kỳ hạn của nợ dài hơn
kỳ hạn của tài sản. Từ quan điểm của một sự mất cân đối giữa tài sản và nợ phải trả,
rủi ro tái đầu tư là hình ảnh phản chiếu của rủi ro tái cấp vốn. Do đó, rủi ro tái đầu tư
có thể tăng lên trong tình huống mà lợi nhuận trên tài sản không đủ để trangtrải các
chi phí sử dụng vốn. Ví dụ, giả sử rằng lợi nhuận trên một danh mục đầu tưtrái phiếu
doanh nghiệp là 7% và danh mục đầu tư này sẽ được nắm giữ trong 2năm. Ngân
hàng vay vốn với lãi suất cố định trong hai năm là 6% mỗi năm và có 1% lợi nhuận
trong một năm. Trong năm thứ hai, lãi suất trêndanh mục đầu tư trái phiếu đã giảm
còn 5%. Hậu quả ngân hàng sẽ mất 1% trongnăm thứ hai.
Điều quan trọng là phải nhớ rằng không phải tất cả các tài sản ngân hàng và
cáckhoản nợ nhạy cảm với thay đổi lãi suất và, do đó cũng nhạy cảm với rủi ro lãi
suất. Ví dụ về các tài sản nhạy cảm lãi suất là các chứng khoán có thu nhập cố
địnhnhư trái phiếu (giá trị hiện tại của một trái phiếu doanh nghiệp giảm khi lãi
suấtđược sử dụng để chiết khấu cổ tức tương lai tăng lên) và một số hình thức chovay
doanh nghiệp. Ví dụ về tài sản ít nhạy cảm với lãi suất là tiền mặtđang nắm giữ.
1.1.1.2. Rủi ro ngoại hối
6
Rủi ro ngoại hối là rủi ro tiềm ẩn đối với thu nhập hoặc vốn phát sinh do có
sựbiến động của tỷ giá ngoại hối. Rủi ro ngoại hối phát sinh trong hoạt động ngân
hàng quốc tế bởi vì tài sản vànợ phải trả giống như 1 dòng lưu chuyển tiền tệ được
đặt trong nhiều tiền tệ khácnhau. Lấy ví dụ tại thị trường Eurocurrency nơi mà các
ngân hàng quốc tế rất năngđộng. Một ngân hàng quốc tế ở Anh có thể tạo ra được
một lượng đáng kể khoảnvay đô la Mỹ. Giá trị pound các khoản vay Eurocurrency sẽ
phụ thuộc vào tỷ giágiữa đồng đô la và đồng bảng Anh. Lập luận tương tự áp dụng
đối với thu nhập từlãi liên kết với một khoản vay hoặc một loạt các tài sản khác và
lưu chuyển tiền tệ.
Rủi ro ngoại hối là một rủi ro đặc biệt quan trọng đối với các ngân hàng quốc tếvà
đối với những ngân hàng có phần lớn nghiệp vụ là hoạt động ngân hàng quốc tế.Điều
này áp dụng đối với các quốc gia như Anh và Thụy Sĩ, cả hai có lĩnh vựcngân
hàng quốc tế lớn. Giá trị của tài sản ngân hàng bằng ngoại tệ có thể dễ dàngvượt quá
giá trị của GDP ở các nước này. Biến động của tỷ giá hối đoái của cácđồng tiền mà
các ngân hàng đang kinh doanh thường xuyên (chủ yếu là đồng đô laMỹ, nhưng cũng
có đồng euro và đồng yên) có ý nghĩa quan trọng về khả năngsinh lời và ngay cả khả
năng thanh toán của ngành ngân hàng.
1.1.2. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản được tạo ra trong bảng cân đối kế toán của sự mất cân
đốigiữa tài sản và nợ phải trả đến hạn.Nguyên nhân cốt lõi của nó là rất giống với
cácyếu tố cơ bản rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, rủi ro lãi suất phát sinh vì sự mất cân
đốikhi đến hạn làm cho hoạt động thanh toán từ của một số ngân hàng gặp khó
khănkhi có những thay đổi trong tỷ lệ lãi suất ảnh hưởng đến lợi tức thu được trên tài
sản hoặc các chi phí phát sinh của nợ theo thời gian. Ngược lại, rủi ro thanh
khoảnphát sinh không phải vì chi phí vốn, vì sự sẵn có của tiền tại một ngân hàng.
Một tài sản có tính thanh khoản là một tài sản có thể được chuyển đổi thành
tiềnmặt một cách nhanh chóng. Trái phiếu được phát hành bởi các chính phủ được
coilà loại tài sản có tính thanh khoản cao nhất. Các tài sản thanh khoản khác bao
gồmcổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và các chứng khoán được giao dịch nhiều
nhấttrên thịtrường. Tài sản kém thanh khoản bao gồm bất động sản, hầu hết các
loạichứng khoán không giao dịch trên thị trường và các khoản vay – tài sản chủ
yếucủa ngân hàng.Thông thường, các ngân hàng thương mại sử dụng tiền gửi thanh
khoản ngắn hạn và thanh khoản để tài trợ các khoản vay dài hạn và có tính
thanhkhoản kém.
Tùy thuộc vào các giao ước hợp đồng cho vay, các khoản vay có thể được thu
hồi lại, một số thậm chí trong một thông báo khá ngắn. Tuy nhiên, các khoản vay sẽ
7
vẫn có tính thanh khoản kém hơn so với tiền gửi của khách hàng, mặc dù nhiều trong
số đó có thể bị thu hồi mà không có bất kỳ thông báo trước. Do đó, một sự mất cân
đối khi đến hạn thanh toán giữa các tài sản và nợ phải trả của các ngân hàng có thể
đẩy ngân hàng vào trong tình huống không có dự trữ đầy đủ các tài sản có tính thanh
khoản cao, một số lượng lớn khách hàng rút tiền sẽ làm cho một ngân hàng có tính
thanh khoản kém. Điều quan trọng là phải nhớ rằng miễn là dự trữ bắt buộc không
phải là 100%, bất kỳ ngân hàng đều có thể phải chịu một cuộc khủng hoảng thanh
khoản chừng nào mà việc rút tiền gửi vượt quá dự trữ tài sản có tính thanh khoản.
Điều quan trọng là nhớ rằng nhiều ngân hàng quốc tế sẽ không đi theo mô
hình đơn giản của nguồn vốn huy động trên. Các tổ chức này sẽ sử dụng ít nhất một
phần nguồn là chứng từ thương mại và thị trường liên ngân hàng để gia tăng tài
chính và thị trường Eurocurrency, nơi mà hoạt động cho vay được thực hiện bằng
ngoại tệ. Tuy nhiên, các nguyên tắc cơ bản của rủi ro thanh khoản thì vẫn giốngnhau.
Vốn huy động thì có kỳ hạn ngắn hơn đáng kể so với kỳ hạn của các khoảnvay mà nó
tài trợ. Điển hình các khoản vay liên ngân hàng có kỳ hạn ba tháng sovới kỳ hạn một
vài năm đối với các khoản vay doanh nghiệp và hộ gia đình. Khi một sốlượng lớn các
khoản nợ mang tính thanh khoản được thu hồi trongmột nỗ lực phối hợp của chủ nợ,
điều này được gọi là một cuộc tháo chạy vốn(bank runs).
1.1.3. Rủi ro tín dụng
Đối với hầu hết các ngân hàng, phần lớn rủi ro tín dụng bắt nguồn từ hoạt
động cho vay. Đối với các ngân hàng quốc tế, điều này cũng xảy ra đối với hoạt động
cho vay trong thị trường Eurocurrency. Bên cạnh rủi ro về nghĩa vụ của khách hàng,
rủi ro tín dụng còn đến từ phía đối tác.
Ví dụ: Nếu một trong những ngân hàng đã ký kết thỏa thuận mặc định, thỏa
thuận hoán đổi sẽ không còn cung cấp một phương tiện thay đổi độ nhạy cảm của lợi
nhuận với những thay đổi về lãi suất. Do đó, mặc định của một trong các đối tác sẽ để
lại cho các đối tác khác tiếp xúc với rủi ro lãi suất (hoặc các loại rủi ro đã có nghĩa là
được tự bảo hiểm bằng cách sử dụng giao dịch hoán đổi). Do đó, nó có thể được lập
luận rằng rủi ro tín dụng cũng liên quan với các hoạt động liên quan đến lãi suất của
các ngân hàng quốc tế. Một cách đơn giản để quản lý rủi ro tín dụng là thông qua đa
dạng hóa. Tại các quốc gia, các ngân hàng quốc tế có thể đạt được đa dạng hóa bằng
cách hạn chế các khoản cho vay khách hàng bằng cách cho vay nhiều lựa chọn như
thông qua cho vay hợp vốn, cho vay đối với các ngành công nghiệp khác nhau. Tuy
nhiên, hạn chế cho vay của họ không làm thay đổi nguy cơ vỡ nợ gây ra bởi các
khoản vay.
Có thể biết được nguy cơ vỡ nợ của khách hàng vay theo xếp hạng tíndụng,
hay dựa trên dữ liệu thu thập được trong nội bộ của một ngân hàng (bằngcách đánh
8
giá các dòng tiền hiện tại của khách hàng vay và phát triển khả năng củamôi trường
công nghiệp của nó) hoặc bên ngoài (ví dụ, trên cơ sở xếp hạng tíndụng từ các cơ
quan xếp hạng tín dụng hoặc các giao dịch hoán đổi vỡ nợ tíndụng).
Cuối cùng, các ngân hàng đòi hỏi những dữ liệu này sử dụng phương pháp
địnhlượng để ước tính xác suất rủi ro mặc định. Một khi xác suất mặc định bằng
cáchvay (rủi ro tín dụng) đã được ước tính, các ngân hàng có thể giao dịch với các
khoản vay giá phù hợp.
Đối với các công cụ thị trường tài chính, các ngân hàng quốc tế cần phải sử
dụngcác phương pháp tiếp cận tương tự để xác định rủi ro tín dụng thị trường gắn
liềnvới các đối tác thị trường. Điều này liên quan đến việc áp dụng các kỹ thuật
địnhlượng khác nhau để đánh giá xác suất mà đối tác có thể bị giảm uy tín tín
dụnghoặc mặc định.
1.1.4. Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp là các tổn thất do con người, do quá trình xử lý công việc, do hệ
thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động, hoặc do các sự kiện bên ngoài
gây ra. Có thể hiểu RRTN là rủi ro phát sinh do yếu tố con người (cẩu thả, gian lận);
sự yếu kém trong hệ thống công nghệ, thông tin; sự sơ hở, thiếu các quy định của các
NHTM. Định nghĩa này bao gồm cả rủi ro pháp lý, nhưng không bao gồm rủi ro chiến
lược và rủi ro danh tiếng. Trong thực tế, rủi ro tác nghiệp xảy ra do: gian lận của nhân
viên, các vụ trộm, lỗi hệ thống, mất điện, lũ lụt, hoặc các lý do khác dẫn đến các sai
sót ở một ngân hàng mà không thể phân loại vào các rủi ro khác.
Hình 4.2 cung cấp một cái nhìn tổng quan về các loại khác nhau của rủi ro hoạt
động. Một số các loại rủi ro (chẳng hạn như xuất phát từ các nguồn bên ngoài ngân
hàng) không thể ngăn chặn. Cụ thể là chủ nghĩa khủng bố cũng như các cá nhân bên
ngoài ngân hàng tìm cách lừa gạt nó. Những rủi ro sự kiện khác có thể được ngăn
chặn bằng cách thiết lập quy trình và hệ thống kiểm soát các hoạt động.
9
Hình 4.2: Rủi ro hoạt động
1.1.5. Rủi ro khác
Ngân hàng quốc tế cũng phải đối mặt với một số yếu tố nguy cơ khác, tiêu
biểu là rủi ro quốc gia và rủi ro pháp lý…
Rủi ro quốc gia: Là xác suất chính trị, xã hội và kinh tế điều kiện ở nước ngoài ảnh
hưởng đến hoạt động thương mại của các ngân hàng nước ngoài. Một sự thay đổi
trong chính phủ, đặc biệt đánh một mức thuế cao vào các hoạt động nước ngoài của
các ngân hàng, tình trạng bất ổn chính trị và gia tăng tham nhũng là tất cả các ví dụ
của các sự kiện mà có thể được phân loại như gây rủi ro quốc gia. Rủi ro quốc gia
không xuất phát từ những rủi ro vốn có và các thuộc tính trở lại của một hoạt động cụ
thể. Thay vào đó, nó xuất phát từ vị trí của hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng có
đầu tư đáng kể ở nước ngoài (trong các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài) hoặc
các ngân hàng có lợi nhuận lớn cổ phần xuất phát từ một nước ngoài cụ thể phải đối
mặt lớn nhất mức độ rủi ro quốc gia.
Rủi ro pháp lý: Đây là một loại rủi ro riêng biệt, nó mô tả các nguy cơ của một sự
thay đổi trong các luật và quy định về lợi nhuận của một khoản đầu tư.
Công cụ phái sinh là gì?
Là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm
nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị
của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái
10
phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm
giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng
kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có
thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên
các công cụ lai tạo.
2. Công cụ tài chính phái sinh
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh, những
công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên 1 hoặc 1 số công
cụ tài sản khác. Chúng ta xem các công cụ phái sinh như là các hợp đồng, và giống như tất cả
hợp đồng, chúng được thoả thuận giữa hai bên: người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ
thực hiện nghĩa vụ gì đó cho bên kia. Các hợp đồng này có giá cả và người mua sẽ cố gắng
mua với giả rẻ và người bán cố gắng bán với giá cao nhất. Các loại công cụ phái sinh khác
nhau bao gồm: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng giao sau, quyền chọn, hoán đổi và chứng khoán
lai tạp.
Hợp đồng kỳ hạn là công cụ lâu đời nhất, và có lẽ vì lí do đó mà nó ít phức tạp nhất.
Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng giữa 2 bên. Người mua và người bán, để mua hoặc bán tài sản
vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Nếu vào ngày đáo hạn, giá
thực tế cao hơn giá hợp đồng thì người sở hữu hợp đồng sẽ kiếm được lợi nhuận; nếu ngược
lại thì người sở hữu hợp đồng sẽ chịu một khoản lỗ.
Bản thân hợp đồng kỳ hạn mang trong mình 3 loại rủi ro.
+ Thứ 1: nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi ro vốn có
của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty nhưng sự sụt giảm này sẽ được đền bù bằng lợi nhuận
của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy, hợp đồng kỳ hạn cung cấp một cách phòng ngừa rủi ro hoàn
hảo.
+ Thứ 2, rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng. Rủi ro này có hai
chiều, người sở hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là người chi trả, phụ thuộc vào
biến động giá cả thực tế của tài sản cơ sở.
+ Thứ 3, giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo hạn của hợp
đồng, không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc trong thời hạn của
hợp đồng. Vậy nên, bản thân những hợp đồng kỳ hạn có chứa nhiều rủi ro nhất trong các
công cụ phái sinh.
Hợp đồng giao sau cũng là một hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để
mua bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Hợp đồng
giao sau tiến triển từ hợp đồng kỳ hạn nên có những điểm giống với hợp đồng kỳ hạn. Về
11
bản chất, chúng giống tính thanh khoản của hợp đồng kỳ hạn. Tuy vậy, khác với hợp đồng
kỳ hạn, hợp đồng giao sau được giao dịch trên thị trường có tổ chức, được gọi là sàn giao
dịch giao sau. Người mua hợp đồng giao sau là người có nghĩ