Do sự phát triển không đều về mọi mặt, đặc biệt là về kinh tế , trình 
độ phát triển, mức sống, thu nhập. Trong điều kiện của nền kinh tế thị 
trường, để có vừa cạnh tranh, vừa hợp tác trong phát triển, các quốc gia, các 
công ty và các tập đoàn của các quốc gia khác nhau có nhu cần trao đổi về 
vốn và các yếu tố sản xuất.
Thị trường trao đổi, mua bán vốn giữa các quốc gia thông qua các 
công cụ tài chính nhất định được gọi là thị trường tài chính quốc tế.
Thị trường tài chính quốc tế ra đời và phát triển ở khắp mọi nơi và nó 
có vai trò như những trung gian tài chính giữa nhà cung cấp và người sử 
dụng vốn. từ đó hình thành các trung tâm tài chính quốc tế lớn, nơi chuyển 
giao, vay mượn các nguồn vốn của các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn 
xuyên quốc gia.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5691 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tổng quan về thị trường tiền tệ - Thị trường eurodollar (thị trường tiền gửi, cho vay), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận 
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN 
TỆ - THỊ TRƯỜNG EURODOLLAR (THỊ 
TRƯỜNG TIỀN GỬI, CHO VAY) 
 Nhóm thực hiện : 3A 
Tổng quan về Thị trường tài chính quốc tế 
 Do sự phát triển không đều về mọi mặt, đặc biệt là về kinh tế , trình 
độ phát triển, mức sống, thu nhập. Trong điều kiện của nền kinh tế thị 
trường, để có vừa cạnh tranh, vừa hợp tác trong phát triển, các quốc gia, các 
công ty và các tập đoàn của các quốc gia khác nhau có nhu cần trao đổi về 
vốn và các yếu tố sản xuất. 
 Thị trường trao đổi, mua bán vốn giữa các quốc gia thông qua các 
công cụ tài chính nhất định được gọi là thị trường tài chính quốc tế. 
 Thị trường tài chính quốc tế ra đời và phát triển ở khắp mọi nơi và nó 
có vai trò như những trung gian tài chính giữa nhà cung cấp và người sử 
dụng vốn. từ đó hình thành các trung tâm tài chính quốc tế lớn, nơi chuyển 
giao, vay mượn các nguồn vốn của các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn 
xuyên quốc gia. 
 Phân loại thị trường tài chính quốc tế: có nhiều cách phân chia 
TTTCQT khác nhau tùy theo giác độ nghiên cứu: 
 Căn cứ vào phạm vi giao dịch: chia thành TTTC quốc gia được 
coi như các trung tâm tài chính quốc tê và thị trường TCQT mang tính toàn 
cầu 
 Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn: chia TTTCQT thành 
 TT tiền tệ quốc tế: là nơi giao dịch, mua bán, chuyển giao 
các phương tiện thanh toán, các nguồn vốn ngắn hạn vận 
động không tập trung ( chủ yếu có thời hạn dưới 1 năm) 
 TT vốn quốc tế : là nơi giao dịch, mua bán, chuyển giao 
các khoản vốn trung và dài hạn. nguồn vốn trung và dài 
hạn thường vận động tập trung thành các kênh với khối 
lượng lớn, tại các điểm giao dịch vốn lớn nhằm đáp ứng 
các nhu cầu sản xuất kinh doanh 
 Căn cứ vào điểm giao dịch: 
 Thị trường Luân đôn 
 Thị trường New York 
 Thị trường Tokyo 
Tổng quan về thị trường tiền tệ quốc tế: 
 Thị trường tiền tệ quốc tế là thị trường tiến hành các hoạt động mua 
bán, chuyển giao, cho vay bằng ngoại tệ với thời hạn ngắn và lãi suất thích 
hợp. 
 Đặc điểm của thị trường tiền tệ quốc tế 
- Thị trường tiền tệ quốc tế rất rộng lớn, ở bất kỳ đâu, không có vị trì 
địa lý được xác định chính thức của thị trường, thường 3 khu vực chính của 
thị trường này là Châu Âu, Châu Á và Bắc Mỹ 
- Các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường tiền tệ quốc tế có 
thời hạn ngắn ( thường dưới 1 năm ) 
- Các công cụ trên thị trường này có tính lỏng cao, có độ an toàn lớn, 
các thị trường riêng biệt của các công cụ này tạo ra thị trường tiền tệ thống 
nhất 
- Chủ thể chính tham gia thị trường là các nhà đầu tư quốc tế, các doanh 
- nghiệp với hình thức tài chính đặc trưng là hình thức tài chính gián 
tiếp. các ngân hàng thương mại thường đóng vai trò trung gian tài chính. 
A/ Khái niệm và đặc điểm của thị trường eurodollar: 
1. Khái niệm: 
Ta sẽ bắt đầu tìm hiểu thế nào là “eurodollar” đó là đồng đô la Mỹ sử 
dụng trong hoạt động tín dụng tại các nước bên ngoài nước Mỹ được gọi 
chung là "Eurodollar". Lúc đầu Eurodollar chỉ được áp dụng cho thị trường 
châu Âu, nhưng dần dần cho tới ngày nay khái niệm Eurodollar đã được 
đồng hoá toàn cầu. Vì đây là các khoản tiền gửi bằng đôla Mỹ tại các ngân 
hàng nước ngoài hoặc các chi nhánh của ngân hàng Mỹ tại nước ngoài nên 
bằng cách này thì những đồng eurodollar có thể tránh được các quy định 
của cục dự trữ liên bang). 
Thị trường eurodollar rất rộng lớn, ước tính tổng số lượng của thị 
trường vượt trên 1000 tỷ USD, trong đó hoạt động của Eurodollar chiếm 
tới 65 - 70% tổng doanh số họat động toàn thị trường euro currency nên 
theo nghĩa hẹp thì khi nói đến eurocurrency thì người ta còn hiểu đó là thị 
trường eurodollar. Còn theo nghĩa rộng thì thị trường eurodollar là nơi 
diễn ra việc trao đổi mua bán đồng tiền USD nằm ngoài nước Mỹ. 
Ngày nay, đối với các đồng tiền mạnh, thị trường tiền tệ đã vượt ra 
ngoài biên giới truyền thống vốn có của chúng, do đó, chúng ta có thể ký 
một tờ séc bằng Đôla Mỹ từ tài khoản mở tại ngân hàng ở Tokyo, hoặc ký 
một tờ séc bằng Yên Nhật từ tài khoản mở tại ngân hàng ở New York. Từ 
đó, dẫn đến một thực tế là: các đồng tiền khác nhau được duy trì bên cạnh 
nhau trên các tài khoản ngân hàng 
Eurodollars là khoản tiền gửi bằng Đô la Mỹ trên tài khoản ngân hàng 
nằm ngoài nước Mỹ (những ngân hàng nhận Eurodollars gọi là Eurobanks 
hay Offshore Banks). Một cách khái quát, ta có thể hiểu: Eurocurrencies là 
tiền gửi bằng các đồng tiền khác nhau trên tài khoản của các ngân hàng 
nằm ngoài nước phát hành 
Eurobanks là những ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay ngắn hạn đồng 
tiền của một quốc gia bất kỳ, nhưng không chịu sự chi phối các qui định 
của Ngân hàng Trung ương phát hành đồng tiền này 
Eurocurrency là đồng tiền của một nước được duy trì trên tài khoản của 
các Eurobanks. Vì các Eurobanks không chịu sự chi phối của các quy định 
của NHTW phát hành đồng tiền Eurocurrency, nên các Eurocurrency được 
coi là đồng tiền quốc gia lưu hành “bên ngoài” nước phát hành. 
Sự di chuyển của những đồng bản tệ từ hệ thống ngân hàng nội địa sang 
các Eurobanks gọi là di chuyển từ lưu thông nội địa sang lưu thông hải 
ngoại. 
 Những nhân tố làm cho thị trường Eurodollars phát triển: 
Chúng ta sẽ phân tích những nhân tố làm tăng cung tiền gửi trên thị trường 
Eurodollars và những nhân tố làm tăng cầu tín dụng từ các Eurobanks 
 1/ Về cung tiền gửi Eurodollars: 
 Fed (Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ) khống chế trần lãi suất 
tiền gửi tối đa: 
Trong những năm 1960 và 1970, thông qua Quy chế Q,Fed khống 
chế trần lãi suất tối đa đối với các khoản tiền gửi tại các ngân hàng và các tổ 
chức nhận tiền gửi ở Mỹ.Trong khi đó,các ngân hàng ở London và các trung 
tâm tài chính khác lại không bị khống chế trần lãi suất huy động USD nên 
trả lãi suất tiền gửi USD cao hơn và hấp dẫn được các USD chuyển sang 
đây.Để đối phó với Quy chế Q,nhiều ngân hàng Mỹ đã mở chi nhánh ở nước 
ngoài để thu hút các luồng vốn này.Nhưng quy chế này đã được dỡ bỏ(1970) 
và các luồng tiền USD lại trở về Mỹ. 
 Fed yêu cầu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi: 
Cung tiền gửi Eurodollars tăng lên từ lợi thế của các ngân hàng Mỹ 
chuyển họat động ra nước ngoài để tránh Quy chế M của Fed về yêu cầu dự 
trữ bắt buộc(1969).Vì khoản dự trữ bắt buộc không sinh lời,nên các hoạt 
động ở hải ngoại chịu ít chi phí hơn do vậy đã kích thích các ngân hàng Mỹ 
chuyển 1 số tài khoản tiền gửi của khách hàng sang thị trường hải ngoại tự 
do.Do không bị khống chế Quy chế M nên các ngân hàng Mỹ ở hải ngoại có 
mức lãi suất cao hơn so với các ngân hàng nội địa. 
2/ Về cầu tín dụng Eurodollars: 
 Những hạn chế vay USD tại Mỹ: 
Trong những năm 1960 và 1970 do có những hạn chế đối với người không 
cư trú trong việc tiếp cận tín dụng tại các ngân hàng ở Mỹ(nhưng các 
Eurobanks lại không bị hạn chế) nên đã kích thích những người này quay 
sang vay USD tại các Eurobanks.Đây được xem như tiền đề và là động lực 
cho sự phát triển tín dụng bằng Eurodollars.Năm 1965,đầu tư ra nước ngoài 
bị hạn chế bởi một chương trình tự nguyện nhằm kiểm soát hạn chế cho vay 
USD đối với các ngân hàng ở Mỹ, và đến 1968thì ch7ơng trình này trở thành 
bắt buộc và đã buộc nhiều người có nhu cầu vay USD chuyển hướng snag 
thị trường Eurodollars. 
 Đánh thuế thu nhập từ đầu tư vào chứng khoáng nước 
ngoài: (The U.S Interest Equalization Tax – IET) 
Đây là quy chế tiếp theo tác động làm tăng trưởng tín dụng Eurodollars, hàm 
ý của nólà để kích thích công dân Mỹ tiếp tục cho người nước ngoài vay, thì 
lãi suất người nước ngoài chào vay phải tương đối cao đủ để bù đắp chi phí 
thuế thu nhập (IET) nói trên. Để giảm chi phí, những người nước ngoài 
chuyển sang vay USD trên thị trường Eurodollars. Do tránh được thuế thu 
nhập (IET) nên lãi suất chào vay thực sự đã giảm xuống.. 
3/ Vai trò của chênh lệch đầu vào và đầu ra hẹp: nguyên nhân 
chính khiến cho các hoạt động của Eurobanks thành công ngay cả sau khi 
Chính phủ Mỹ bãi bỏ các quy chế là: Eurobanks có khả năng trả lãi suất 
tiền gửi cao hơn và thu lãi suất cho vay thấp hơn so với các ngân hàng ở 
Mỹ. Đây là lợi thế cạnh tranh và là nguyên nhân cơ bản giúp cho các hoạt 
động của Eurobanks tồn tại, được ưa chuộng và phát triển.ta có sơ đồ biểu 
diễn lợi thế cạnh tranh của các Eurobanks: Nguyên nhân dẫn đến sự chênh 
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tại các Eurobanks là hẹp hơn so 
với tại các ngân hàng ở Mỹ: 
Khác với các ngân hàng kinh doanh nội địa, các Eurobanks được độc 
lập với những quy chế kiểm soát của chính phủ, đặc biệt là không phải tham 
gia dự trữ bắt buộc ,các Eurobanks không phải là đối tượng phải tham gia dự 
trữ bắt buộc, cho nên chúng có khả năng chỉ duy trì một lượng tài sản tối ưu 
có mức lãi suất thấp làm tài sản dự trữ vì vậy mà các Eurobanks có thể trả lãi 
suất tiền gửi cao hơn và thu lãi suất cho vay thấp hơn so với các ngân hàng ở 
Mỹ. 
mức trung bình của mỗi khoản tiền gửi và mỗi khoản cho vay là rất lớn, 
từ hàng trăm triệu đến nghìn triệu USD có nghĩa là chi phí hoạt động trung 
bình liên quan đến mỗi USD nhận tiền gửi hay cho vay là rất thấp đối với 
các Eurobanks. 
Các Eurobanks tránh được đáng kể những chi phí phụ trội liên quan đến 
tổ chức cán bộ, hành chính và sự chậm trễ phát sinh do phải tuân theo các 
quy định tại mỗi ngân hàng nội địa trong khi đó các ngân hàng nội địa phải 
chi 1 khoản khá lớn cho các họat động này. 
Những hoạt động của các Eurobanks chịu sự cạnh tranh quốc tế mạnh mẽ và 
có điều kiện dễ dàng tham gia hoạt động trên thị trường này hơn. 
Các Eurobanks không phải trả phí bảo hiểm tiền gửi, trong khi đó các ngân 
hàng Mỹ phải trả phí bảo hiểm tiền gửi. 
Nhìn chung, đội ngũ khách hàng được các Eurobanks cho vay đều là những 
khách hàng có chất lượng cao, có tỷ lệ vỡ nợ không đáng kể còn ngân hàng 
nội địa thì ngược lại.Nên thu thêm một khoản phí cho vay để bù đắp rủi ro, 
làm cho mức lãi suất cho vay bị đội lên và mức lãi suất tiền gửi giảm xuống. 
4/ Thặng dư thương mại của các nước OPEC: 
Trên cơ sở cú sốc giá dầu những năm 73/74 và năm 78, các Eurobanks đã 
cho vay hỗ trợ các nước nhập khẩn dầu đang gặp khó khăn trong cán cân 
thanh toán quốc tế nên Eurobanks đã đóng vai trò quan trọng trong việc chu 
chuyển vốn nhàn rỗi từ những quốc gia xuất khẩn dầu đếnnhững nước nhập 
khẩn dầu đang có nhu cầu USD.Phần lớn các khoản tín dụng của Eurobanks 
cấp cho các nước đang phát triển đều dưới hình thức đồng tài trợ vốn(hợp 
vốn). 
5/Vai trò thâm hụt cán cân thương mại Mỹ: 
Trong thời kỷ đầu phát triển,nguyên nhân tăng trưởng của thị trường 
Eurodollars thường được gắn với thâm hụt cán cân thương mại của 
Mỹ.Thâm hụt cán cân thương mại của Mỹ đồng nghĩa với việc người không 
cư trú có thu nhập bằng USD và tích lũy chúng tuy nhên nó cũng chỉ đóng 
vai trò mờ nhạt trong việc mở rộng tiền gửi Eurodollars. 
Tiền gửi Eurodollars tại các Eurobanks chỉ phát triển khi có lợi cho người 
gửi.Tương tự,thị trường Eurodollars cũng khôgn thể biến mất chỉ vì cán cân 
thương mại của Mỹ thặng dư.Chừng nào các Eurobanks còn phục vụ tiện lợi 
hơn và với chênh lệch lãi suất hẹp hơn so với các ngân hàng ỡ Mỹ thì thị 
trường Eurodollars còn phát triển và thịnh vượng. 
B/ Các loại công cụ tài chính Eurocurrency: 
I/ Tiền gửi: 
Trên thị trường tiền tệ bán buôn,các Eurobank nhận tiền gửi 
Eurocurrency có kỳ hạn và phát hành các NCD(Negotiable Certificates of 
Deposit-chứng chỉ tiền gửi khả nhượng) 
1.Tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency 
+Tiền gửi Eurocurrency chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn với mức lãi 
suất cố định. Đây là phương thức được các Eurobank ưa chuộng để huy 
đông vốn cho vay. 
+Việc rút vốn trước hạn từ tiền gửi cố định sẽ phải chịu lãi phạt. Lãi 
suất tiền gửi Euro tương ứng với các kỳ hạn từ 1 ngày đến vài năm, tuy 
nhiên kỳ hạn chuẩn mực là 1,2,3,6,9 và 12 tháng. 
+Ngoài các đồng tiền quốc gia chủ yếu, tiền gửi Euro bằng SDR 
(Special Drawing Rights-quyền rút vốn đặc biệt) cũng được hình thành.Các 
SDR là tiền tệ do IMF phát hành với hình thức 1 loại tài sản dự trữ của các 
NHTW,được giới thiệu lần đầu tiên bởi Chemical Bank ở London. Cũng 
như các loại tiền gửi Euro khác, tiền gửi SDR phần lớn là tiền gửi có kỳ hạn 
và không chuyển nhượng được. 
2.Chứng chỉ tiền gửi Eurocurrency khả nhượng-NCD 
+Một phần nhỏ tài sản nợ của các Eurobank không phải là tiền gửi 
có kỳ hạn, mà là các NCD,được các Eurobank huy động với mệnh giá tối 
thiểu là 500.000USD, thường là 1 triệu USD. NCD (Negotiable 
Certificates of Deposit - Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng 
được) 
+Khác với tiền gửi có kỳ hạn,NCD có khả năng lưu thông nên dễ 
dàng mua bán lại trên thị trường thứ cấp,điều này làm cho NCD có tính 
thanh khoản cao hơn so với tiền gửi kỳ hạn.Tuy nhiên các Euro NCD không 
phải bằng USD lại có tính thanh khoản không cao. 
+Thị trường NCD bắt đầu hoạt động tại London với đồng Eurodollar 
vào năm 1967. Tính theo Eurodollar,các NCD chiến khoảng 20% nguồn vốn 
của các Eurobank,80% còn lại là tiền gửi có kỳ hạn thông thường. 
+Từ năm 1981,một số ngân hàng tại London như Barclays Bank 
International,Chemical Bank,Hong Kong Bank…đã huy động SDR bằng 
phương thức phát hành NCD như các loại tiền gửi kỳ hạn khác. 
 Sự tiện lợi của tiền gửi Eurodollar: 
Trong những năm cuối 1960 eurodollar tăng trưởng mạnh do sự tiện 
lợi của chúng.Eurodollars tiện lợi hơn nhiều so với những USD nằm trên tài 
khoản tại các ngân hàng ở Mỹ. Những công dân Châu Âu và những công 
dân khác không phải công dân Mỹ có những khoản thu và chi thường bằng 
USD không bằng nhau tại mỗi thời điểm. Rủi ro hoạt động của thị trường 
Eurodollar không những ảnh hưởng gián tiếp mà còn ảnh hưởng trực tiếp 
đến nền kinh tế của nước chủ quyền đồng tiền này. Một trong những mối 
quan tâm chính đến thị trường Eurodollar là thị trường này bao gồm một 
khối lượng khổng lồ nguồn vốn có khả năng tạo tín dụng nhưng lại không có 
bất cứ một quy chế điều chỉnh nào. 
VD: những người nước ngoài không phải công dân Mĩ có những 
khoản thu và chi bằng USD.Khi có nhu cầu sử dụng họ có thể bán USD lấy 
nội tệ hay đổi nội tệ lấy USD.Tuy nhiên sẽ phải chịu phí giao dịch là chênh 
lệch tỷ giá mua-bán và các rủi ro tỷ giá.Vì thế sẽ hiệu quả và thuận lợi hơn 
nhều nếu họ kí gửi USD tại 1 NH ở xung quanh họ ngay tại nước bản địa mà 
không phải nước Mĩ. Điều này trở thành động lực khiến cho thị trường 
Eurocurrency phát triển nhanh chóng. 
3.Các loại giao dịch trên thị trường tiền gửi: 
a. Giao dịch qua đêm: (J+1, Overnight, O/N). Tức là giao dịch mà 
ngày vay vốn là ngày hôm nay (ngày J), ngày trả nợ là ngày hôm sau (J+1). 
b. Giao dịch ngày mai (J+2, Tomorrow next, tomnext). Ký hiệu T/N. 
Tức ngày thỏa thuận là ngày hôm nay (ngày J), ngày giao vốn là ngày mai 
(J+1), ngày trả nợ là ngày (J+2). 
c. Giao dịch ngày kia (J+3, Spot next, S/N)Tức là ngày thỏa thuận là 
ngày hôm nay (ngày J), ngày giao vốn là ngày (J+2), ngày trả nợ là ngày 
mốt 
(J+2+1). 
d. Giao dịch cho kỳ hạn thứ n Là giao dịch mà ngày thỏa thuận là 
ngày hôm nay (ngày J), ngày giao vốn là ngày J+2, ngày trả nợ là ngày 
(J+2+n). 
II/ Cho vay: 
 1/ Tín dụng tiền tệ : là khoản cho vay bằng tiền tệ Euro ngắn hạn (hiện 
nay là cả trung hạn) mà các Eurobank cấp cho các doanh nghiệp, các ngân 
hàng, các chính phủ và các tổ chức quốc tế. Các khoản vay này được thực 
hiện bằng loại tiền không phải là đồng bản tệ của quốc gia mà Eurobank 
thường liên kết nhau thành một tổ hợp đồng tài trợ để chia sẻ rủi ro. 
 Các khoản tiền cho vay trên thị trường Eurodollar, thông thường là 
khoản một triệu đô Mỹ hoặc hơn 
2/ Các khoản vay đồng tài trợ bằng đồng tiền châu âu: 
 Mặc dù thị trường đồng tiền Châu Âu tập trung vào các giao dịch có 
số lượng lớn nhưng đôi khi không một ngân hàng Châu Âu đơn lẻ nào có thể 
đáp ứng nổi một số lượng theo yêu cầu của một công ty hoặc cơ quan chính 
phủ nào đó. Trong trường hợp này, một nhóm ngân hàng sẽ đứng ra dàn xếp 
giao dịch này, cùng đồng thời cho vay. Một ngân hàng đứng đầu chịu trách 
nhiệm thương lượng với khách hàng, các ngân hàng khác tham gia tài trợ 
cho khoản nợ này. Nhóm ngân hàng này thường được hình thành trong 
khoản 6 tuần hoặc ít hơn hếu khách hàng là một tổ chức có tên tuổi, bởi rủi 
ro tín dụng trong trường hợp này sẽ được thẩm định một cách nhanh chóng. 
 Người đi vay phải gánh chịu nhiều khoản chi phí cho bên cạnh lãi suất 
của khoản nợ vay. Bao gồm: chi phí chi trả cho việc tổ chức các ngân hàng 
đồng tài trợ và bảo lãnh vay. Them vào đó là khoảng 0,25 – 0,5% được trả 
hàng năm cho việc gia hạn tín dụng 
 Các khoản vay tài trợ được định danh bằng nhiều đồng tiền khác 
nhau. Lãi suất phụ thuộc vào đồng tiền định khoản vay, thời gian đáo hạn, và 
khả năng trả nợ của đơn vị đi vay. Và thường được điều chỉnh theo biến 
động của lãi suất cho vay lien ngân hàng có thể điều chính 6 tháng đến 1 
năm 1 lần 
 Các khoản cho vay đồng tài trợ làm tăng khả năng hoàn trả các khoản 
vay một cách nhanh chóng 
3/ Lãi suất: 
 Điểm quan trọng nhất của thị trường tiền Châu Âu là việc vay, cho 
vay được dựa trên cơ sở lãi suất thả nổi. Lãi suất cho vay đối với chính phủ 
và các cơ quan chính phủ, những tập đoàn, cho đến các ngân hàng được định 
trên lãi suất biên tế cố định (fixed margin) trên LIBOR (London Interbank 
Offer Rate-LIBOR) cho 1 thời hạn và 1 đồng tiền chọn trước. Tới mỗi cuối 
hạn kỳ, lãi suất cho kỳ tới được tính ở mức lãi suất biên tế cố định trên 
LINOR mới.. 
 Hay có thể nói : Mức lãi suất quan trọng nhất trên thị trường 
Eurodollar là lãi suất cho vay liên ngân hàng tại London.Lãi suất này được 
coi là chuẩn bị cho mọi giao dịch về ký thác và cho vay trong ngày.Những 
người đi vay phi ngân hàng thường phải trả lãi suất cao hơn LIBOR. Mức 
chênh lệch phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của người vay và các phí giao dịch 
của Eurobank. Người có tiền gửi chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn LIBOR. 
Lúc đầu, mức lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường Eurobank là cố 
định trong suốt thời gian gửi tiền hay cho vay. Về sau lãi suất thả nổi được 
thực hiện phổ biến với các khoản tiền gửi hay cho vay từ 6 tháng trở lên và 
được điều chỉnh định kỳ 3 hay 6 tháng một lần. Trong những năm gần đây, tỉ 
giá chào của thị trường London được coi như điểm chuẩn cho tiền vay của 
Eurobank market. Tuy nhiên, nhiều công ty lớn và một số ngân hàng có thể 
vay được từ thị trường này với lãi suất thấp hơn LIBOR nhiều, do uy tín của 
họ rất lớn 
 Đối với các thị trường tiền tệ EURO trên thị trường Châu Âu, lãi suất 
cho vay cơ bản là LIBOR, tức là lãi suất giữa các ngân hàng lớn ở Luân Đôn 
vào lúc 11h, giờ Luân Đôn 
 Lãi suất vay áp dụng là: LIBOR + X% 
Trong đó: X là biên độ biên độ lãi suất công thêm độ phụ thuộc vào uy tín 
của khách hàng vay. Như vậy trong giao dịch tín dụng của ngân hàng, các 
ngân hàng phải xác định phụ phí và lãi suất thị trường đối với từng khách 
hàng sau khi đã thương lượng, phụ phí này là thù lao của việc cung cấp dich 
vụ của ngân hàng. Các phụ phí này được biểu hiện theo tỉ lệ % và cố định 
cho tới khi thương lượng lại và chúng khác nhau đối với từng khách hàng 
cũng như đối với từng ngân hàng 
LÃI SUẤT LIBOR 20/03/2009 
Kỳ 
hạn 
USD EUR JPY CHF GBP 
1 
tháng 
0,52313 1,20146 0,48500 0,25000 1,12875 
2 
tháng 
0,97063 1,40107 0,56125 0,32500 1,58625 
3 
tháng 
1,22688 1,60321 0,61500 0,41000 1,75875 
6 
tháng 
1,74125 1,76607 0,77625 0,55333 1,98000 
12 
tháng 
2,00625 1,91118 0,95000 0,86500 2,15313 
 Theo nguồn : www.thitruonggiaca.com.vn/ 
 Lãi suất biên tế, hoặc mức chênh lệch giữa chi phí vốn của ngân hàng 
cho vay và lãi suất tính cho người vay, thay đổi tùy theo người vay và được 
tính dựa trên cơ sở rủi ro có thể có từ người vay. Đặc biệt mức này có thể từ 
dưới 0,5% đến 3% với mức trung bình từ 1-2% tùy nơi. Đáo hạn của khoản 
vay cũng có thể từ 3-10 năm. Các đáo hạn thường thay đổi theo thời gian, 
lúc đầu thường khoản 5 năm, ngày nay thì từ 8 hay 10 năm cho người vay 
lần đầu tiên. Người cho va