Tiểu luận Trình bày các năng lực sư phạm và vai trò của chúng đối với người giáo viên kỹ thuật

Hoạt động của giáo viên biểu hiện ở tất cả các hình thức khác nhau của công tác sư phạm nhưng nhìn chung ở hai dạng đặc trưng: Công tác dạy học và công tác giáo dục. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ là tương đối vì khi tiến hành công tác dạy học thì cũng đã đạt mục đích giáo dục. Ngược lại, muốn giáo dục thì cũng phải dựa trên cơ sở dạy học. Vả lại dạy học hay giáo dục thực chất cũng là tạo ra những cơ sở trọng yếu, cơ bản để “xây cất” nhân cách cho thế hệ trẻ. Hiện nay việc xem xét cấu trúc của năng lực sư phạm cũng có nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, có tác giả sắp xếp các năng lực sư phạm dựa vào các năng lực sư phạm giữ vai trò chủ đạo, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò hỗ trợ, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò điểm tựa. Cách phân chia trên có một mặt hợp lý và mặt chưa hợp lý. Cách phân chia này giúp ta thấy mức độ ý nghĩa và hiệu quả khác nhau của năng lực trong hoạt động sư phạm. Nhưng cách làm đó cũng bộc lộ một nhược điểm lớn là việc sắp xếp năng lực này hay năng lực kia vào nhóm năng lực giữ vai trò chủ đạo hau hỗ trợ hoặc điểm tựa thiếu cơ sở thuyết phục lớn. Còn một cách khác, tuy “chiết trung”, nhưng trong đó có hạt nhân hợp lý của nó. Đó là cách nêu ra một số các năng lực điển hình của hoạt động sư phạm. Gônôbôlin cho rằng, việc đưa ra những năng lực trong các năng lực sư phạm không phải xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau. Trong số những năng lực đó, có những năng lực “đặc hiệu” cho hoạt động này ( chẳng hạn năng lực cảm hoá học sinh cần cho công tác giáo dục, hoặc năng lực truyền đạt tài liệu thì lại đặc trưng cho công tác dạy học), nhưng cũng có năng lực “đặc hiệu” cho cả hai hoạt động dạy học và giáo dục. Hơn nữa, trong số những năng lực đó, có năng lực được sử dụng hiệu quả ở những giáo viên khác nhau trong cùng một loại hoạt động do có những đặc điểm cá nhân khác nhau. Chẳng hạn, cả hai giáo viên đều thành công trong công tác dạy học và giáo dục nhưng người thì chủ yếu do truyền đạt tri thức, nhưng có người thì lại nhờ tài khéo léo đối xử sư phạm, cũng có người có tất cả các năng lực nhưng chỉ là một giáo viện trung bình, nếu ở họ không có những phẩm chất nhân cách chung. Những phẩm chất này, có thể không gọi là năng lực sư phạm được, (chẳng hạn niềm tin sâu sắc vào sức mạch của giáo dục, tính mục đích, tính nguyên tắc.) nhưng thiếu nó thì cũng không thể trở thành một giáo viên có tài.

docx17 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4668 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trình bày các năng lực sư phạm và vai trò của chúng đối với người giáo viên kỹ thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN Phần I : TÂM LÝ SƯ PHẠM Trình bày các năng lực sư phạm và vai trò của chúng đối với người giáo viên kỹ thuật. Bài làm Hoạt động của giáo viên biểu hiện ở tất cả các hình thức khác nhau của công tác sư phạm nhưng nhìn chung ở hai dạng đặc trưng: Công tác dạy học và công tác giáo dục. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ là tương đối vì khi tiến hành công tác dạy học thì cũng đã đạt mục đích giáo dục. Ngược lại, muốn giáo dục thì cũng phải dựa trên cơ sở dạy học. Vả lại dạy học hay giáo dục thực chất cũng là tạo ra những cơ sở trọng yếu, cơ bản để “xây cất” nhân cách cho thế hệ trẻ. Hiện nay việc xem xét cấu trúc của năng lực sư phạm cũng có nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, có tác giả sắp xếp các năng lực sư phạm dựa vào các năng lực sư phạm giữ vai trò chủ đạo, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò hỗ trợ, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò điểm tựa. Cách phân chia trên có một mặt hợp lý và mặt chưa hợp lý. Cách phân chia này giúp ta thấy mức độ ý nghĩa và hiệu quả khác nhau của năng lực trong hoạt động sư phạm. Nhưng cách làm đó cũng bộc lộ một nhược điểm lớn là việc sắp xếp năng lực này hay năng lực kia vào nhóm năng lực giữ vai trò chủ đạo hau hỗ trợ hoặc điểm tựa thiếu cơ sở thuyết phục lớn. Còn một cách khác, tuy “chiết trung”, nhưng trong đó có hạt nhân hợp lý của nó. Đó là cách nêu ra một số các năng lực điển hình của hoạt động sư phạm. Gônôbôlin cho rằng, việc đưa ra những năng lực trong các năng lực sư phạm không phải xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau. Trong số những năng lực đó, có những năng lực “đặc hiệu” cho hoạt động này ( chẳng hạn năng lực cảm hoá học sinh cần cho công tác giáo dục, hoặc năng lực truyền đạt tài liệu thì lại đặc trưng cho công tác dạy học), nhưng cũng có năng lực “đặc hiệu” cho cả hai hoạt động dạy học và giáo dục. Hơn nữa, trong số những năng lực đó, có năng lực được sử dụng hiệu quả ở những giáo viên khác nhau trong cùng một loại hoạt động do có những đặc điểm cá nhân khác nhau. Chẳng hạn, cả hai giáo viên đều thành công trong công tác dạy học và giáo dục nhưng người thì chủ yếu do truyền đạt tri thức, nhưng có người thì lại nhờ tài khéo léo đối xử sư phạm, cũng có người có tất cả các năng lực nhưng chỉ là một giáo viện trung bình, nếu ở họ không có những phẩm chất nhân cách chung. Những phẩm chất này, có thể không gọi là năng lực sư phạm được, (chẳng hạn niềm tin sâu sắc vào sức mạch của giáo dục, tính mục đích, tính nguyên tắc...) nhưng thiếu nó thì cũng không thể trở thành một giáo viên có tài. Cũng có tác giả dựa vào chức năng đặc trưng của người giáo viên là dạy học và giáo dục để xác định cấu trúc của năng lực sư phạm. Để thực hiện có hiệu quả các chức năng đặc trưng đó phải có một hệ thống các năng lực tương ứng, do đó tạo thành các nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm. Tuy nhiên, cách chia này cũng có một nhược điểm khác là không hẳn một năng lực cụ thể nào đó là bộ phận cấu hình của nhóm năng lực này chứ không phải là của nhóm năng lực kia. Chẳng hạn, năng lực hiểu học sinh chẳng những cần có trong nhóm năng lực dạy học mà cả trong nhóm năng lực giáo dục cũng không thể thiếu sự có mặt của nó Yêu cầu đối với người giáo viên dạy nghề: - Phẩm chất: + Có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có lý tưởng nghề nghiệp, có lập trường của giai cấp công nhân. + Nắm vững quan điểm, đường lối giáo dục của đảng. + Có động cơ, thái độ đúng đắn đối với nghề, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp trong sáng. + Có bản lĩnh vững vàng và có nghệ thuật lao động sư phạm. - Về năng lực: + Có trình độ văn hoá cao, khoa học kỹ thuật và tay nhề giỏi. + Có năng lực hiểu học sinh, truyền dạt và tổ chức quá trình giáo dục. + Có hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp. Dù sao, xét về mặt thực tiễn, cách phân chia này giúp chúng ta thấy những năng lực cần thiết, cơ bản ứng với từng loại hoạt động đặc trưng của người giáo viện. Từ đó, trong đào tạo ở các trường sư phạm cũng như trong tự rèn luyện của giáo sinh, những hiểu biết trên sẽ là nhãng định hướng bổ ích. Sau đây, ta sẽ xét một số năng lực điển hình trong các năng lực sư phạm: Năng lực hiểu học sinh; năng lực tự học, tự bồi dưỡng; năng lực thiết kế bài giảng; năng lực dạy học; năng lực ngôn ngữ; năng lực lời nói; năng lực giao tiếp; năng lực kéo léo ứng xử sư phạm; năng lực tổ chức. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục Dạy học là một quá trình thuận nghịch, thống nhất của hai loại hoạt động dạy và học do hai thực thể (thầy và trò) đảm nhiệm. Trong quá trình đó, chức năng của giáo viên là tổ chức và điều khiển hoạt động học sinh, chức năng của học sinh chiếm lĩnh nền văn hoá xã hội. Dạy học chỉ có hiệu quả cao khi quá trình đó thực sự là quá trình điều khiển được. Kết quả của sự điều khiển một phần tuỳ thuộc vào “tần số” trao đổi thông tin giữa người dạy và người học, nói cách khác, thầy càng hiểu trò, hiểu kịp thời bao nhiêu thì càng có căn cứ để tổ chức và điều khiển quá trình dạy học và giáo dục của mình bấy nhiêu. Vì vậy, năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục được xem là chỉ số cơ bản của năng lực sư phạm. Đó là năng lực “thâm nhập” vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục. Một giáo viên có năng lực hiểu học sinh khi chuẩn bị bài giảng đã biết tính đến trình độ văn hoá, trình độ phát triển của chúng, hình dung được từng em cái gì cũng biết, biết đến đâu, cái gì có thể quên hoặc khó hiểu. Về vấn đề này, ở những giáo viên ít kinh nghiệm, vì không biết đánh giá đúng trình độ học sinh, nên đối với họ tài liệu nào cũng dường như đơn giản, dễ hiểu và không đòi hỏi một thủ thuật trình bày đặc biệt nào. Rõ ràng là đối với họ tất cả học sinh đều như nhau. Sự phân biệt của họ có chăng chỉ có hai loại: cố gắng hoặc lười biếng, học khá hoặc họ kém. Do đó, trong khi chế biến và trình bày tài liệu, họ đã hướng về mình chứ không phải hướng về học sinh. Trái lại, người giáo viên có kinh nghiệm, khi chế biến và trình bày tài liệu lại biết đặt mình vào địa vị người học. Do đó, họ đặc biệt suy nghĩ về đặc điểm của nội dung, xác định khối lượng, mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh. Vì vậy biểu hiện trước hết của năng lực học sinh là ở chỗ, giáo viên biết xác định khối lượng kiến thức đã có và mức độ, phạm vi lĩnh hội của học sinnh và từ đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày trong công tác dạy học hay giáo dục. Người giáo viên có năng lực hiểu học sinh, trong quá trình giảng dạy của mình, căn cức vào một loại dấu hiệu do quan sát tinh tế có thể xây dựng những biểu tượng chính xác về những lời giảng dạy của mình đã được những học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào? Nhiều quan sát tâm lý cho thấy rằng khả năng hiểu học sinh trong quá trình dạy học của người thầy giáo được thể hiện trên hai mức độ: ở mức độ thấp, giáo viên có thể nhận biết được học sinh hiểu bài mới ra sao bằng cách đề ra câu hỏi, ra bài tập và học sinh làm và trả lời, ở mức độ cao hơn, giao viên có năng lực, ngay trong quá trình dạy học, tự họ như đã nắm được phần nào diễn biến của sự lĩnh hội ở chúng và hầu như đã “đọc” được cái gì đã diễn ra và diễn ra như thế nào trong óc họ. Quan sát những giáo viên giảng giỏi ta thấy, họ theo dõi học sinh hiểu bài như thế nào không phải chỉ qua câu trả lời mà chính qua thắc mắc của học sinh hoặc căn cứ vào những dấu hiệu dường như không đáng kể (một sự ngập ngừng trong câu trả lời, một từ, một câu bị đập xoá trong bài làm, một ánh mắt, một nụ cười hay một tiếng xì xào của lớp...) mà có thể hiểu được những biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn học sinh, dự đoán được mức độ hiểu bài và có khi còn phát hiện được cả mức độ hiểu sai lệch của chúng. Người giáo viên có năng lực hiểu học sinh còn có thể hiện ở chỗ dự đoán được thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức. Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý học trẻ em, tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lý cần thiết như sự “tinh ý” sư phạm (quan sát), óc tưởng tượng, khả năng phân tích và tổng hợp... Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên. Đây là một năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực trụ cột của nghề dạy học, Vì sao vậy? Giáo viên có nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc biệt là tri thức, quan điểm, kỹ năng, thái độ... mà loại người khám phá ra, nhất là tri thức khoa học thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình. Giáo viên phải nắm vững nội dung, bản chất cũng như con đường mà loài người đã đi qua. Chỉ có trong điều kiện ấy, giáo viên mới có thể tổ chức cho học sinh tái tạo và lấy lại những cái cần cho sự phát triển tâm lý, nhân cách của học sinh, tạo ra những cơ sở trong yếu để hình thành phẩm chất và năng lực của con người mới. Do sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển nhanh của khoa học, một mặt xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng cao đối với trình độ văn hoá chung của thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú và nguyện vọng của trẻ càng ngày càng phát triển (thích tìm hiểu, tò mò...) còn có một lý do nữa có thể đề cập tới là tri thức và tầm hiểu biết còn có tác dụng mạnh mẽ tạo ra uy tín của người giáo viên. Người giáo viên có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện ở chỗ: + Nắm vững và hiểu biết rộng mô hình mình phụ trách. + Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh khoa học thuộc môn mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học môn mình phụ trách, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hứng thú lớn lao đối với nó. + Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình, đầy đủ ý thức tự nguyện làm “một thứ bọt biển” để thấm hút vào mình mọi tinh hoa của khoa học, của nền văn hoá nhân loại. Để có năng lực này (tri thức và tầm hiểu biết), không có gì hơn đòi hỏi ở người giáo viên phải có hai yếu tố cơ bản trong chính mình. Nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết (nó là nguồn gốc của tính tích cực và động lực của việc tự học), những kỹ năng để làm thoả mãn nhu cầu đó (phương pháp dạy học). Một vĩ nhân nếu không thường xuyên tự bồi dưỡng thì cũng dần dần mất hết nhu cầu trí tuệ và hứng thú tinh thần và lúc đó còn gì là vĩ nhân, huống gì là người giáo viên. Năng lực thiết kế bài giảng Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ, kinh nghiệm của các em và đảm bảo logic sư phạm. Muốn làm được điều đó trước hết đòi hỏi người thầy giáo phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu. Việc đánh giá đúng đắn tài liệu của giáo viên chính là xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh. Người giáo viên có năng lực chính là người biết tính và xác lập được đúng đắn mối quan hệ nói trên, làm sao viừa đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức của chương trình , vừa là cho tài liệu đó vừa sức tiếp thu với học sinh. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn tài liệu, người giáo viên phải biết chế biến, gia công tài liệu nhằm làm cho nó vừa đảm bảo logic của sự phát triển khoa học, vừa phù hợp với logic sư phạm, lại thích hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Trong cơ chế dạy học trên quan điểm hoạt động, người giáo viên không phải làm việc vận chuyển tài liệu từ sách giáo khoa đến học sinh, mà chủ yếu tổ chức cho học sinh giành lại được tri thức khoa học đã được gửi gắm trong sách giáo khoa, truyền được sức sống của kiến thức, làm cho kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của họ. Vì vậy, người giáo viên ngoài việc nắm được logic phát triển của tri thức, hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu, còn phải biết chế biến, nhào nặn, biết bổ xung tài liệu đó bằng những điều lấy từ sách vở, những điều quan sát và thu thập từ cuộc sống. Muốn làm được điều đó, trước hết người giáo viên phải có khả năng phân tích tổ hợp, hệ thống hoá kiến thức. Khi trình bày một tài liệu (nhất là tài liệu mới, khó, phức tạp, có nhiều mối tương quan), người giáo viên phải phân tích để thấy cái gì là bản chất, là cơ bản, mối quan hệ giữa chúng với những cái chi tiết, cái thứ yếu như thế nào, cũng như suy nghĩ cách trình bày, dắt dẫn để làm cho chúng trở nên nổi bật, trở thành đối tượng tiếp thu của học sinh. Người giáo viên phải có óc sáng tạo. Truyền đạt kiến thức cho người khác hiểu được không phải là vấn đề đơn giản. Không phải là mọi cái gì mình hiểu thì sẽ nói ra cho người khác cũng hiểu đúng và đầy đủ như mình. Do đó, việc xây dựng lại cấu trúc tài liệu cho phù hợp với đặc điểm đối tượng là một quá trình lao động sáng tạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa làm cho tài liệu trở nên đơn giản, thô thiển, hạ thấp trình độ học sinh. Óc sáng tạo của người thầy giáo khi chế biến tài liệu thể hiện ở chõ: - Trình bày tai liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho học sinh những kiến thức tinh tế và chính xác, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, liên hệ vận dụng và thực tiễn cuộc sống. - Tìm ra nhưng phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực. - Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy năng lực chế biến tài liệu ở người giáo viên. Năng lực dạy học Kết quả lĩnh hội tri thức, chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào ba yếu tố: Trình độ nhận thức của học sinh, nội dung của bài giảng, cách dạy của giáo viên. Vì vậy, giáo viên phải biết cách dạy và nâng cao trình độ cách dạy lên mức độ năng lực. Nghề nào cũng có kỹ thuật hành nghề của mình. Nghề dạy cũng có kỹ thuật riêng của nó. Hoạt động dạy và hoạt động học thống nhất với nhau trong cùng một quá trình và không hoạt động nào thay thế cho hoạt động nào. Hoạt động của giáo viên không có mục đích riêng cho mình mà nhằm mục đích tạo ra hoạt động nhận thức tích cực của học sinh. Quan niệm này dẫn tới một kỹ thuật dạy học hoàn toàn khác với kỹ thuật “rót tri thức” (Giáo viên: giảng, học sinh: ghi). Đặc điểm nổi bật của kỹ thuật dạy học mới là thầy tổ chức và điều khiển hoạt động của học sinh nhằm lĩnh hội tri thức. Việc tổ chức và điều khiển hoạt động của trò nhằm lĩnh hội tri thức. Việc tổ chức này dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà loài người đã đi trong khi phát hiện tri thức đó. Vì chỉ có cách đó, học sinh mới thực sự nắm được logic nội tại của khái niệm, nắm được chân lý khoa học. Vậy nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững kỹ thuật tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của trò qua bài giảng, và đạt đến mức như là năng lực. Nắm vững kỹ thuật dạy học được biểu hiện ở chỗ: Nắm vững kỹ thuật dạy mới, tạo cho học sinh ở vị trí “Người phát minh” trong quá trình dạy học. Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh. Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập. Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập (như động viên, khêu gợi được sự chú ý, chuyển hoá kịp thời từ trạng thái làm việc sang trạng thái nghỉ, giảm căng thẳng trong giây lát và ngược lại, khắc phục sự suy giảm của hoạt động trong giờ giảng hoặc thái độ thờ ơ, uể oải). Việc hình thành một năng lực như vậy, nắm vững được kỹ thuật dạy học nêu trên quả không dễ dàng, trái lại, nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc (cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp vụ) và rèn luyện tay nghề công phu. Năng lực ngôn ngữ Có thể nói không có năng lực dạy học nếu không có năng lực ngôn ngữ. Trong dạy học, cũng như giáo dục, ngôn ngữ của giáo viên thường hướng vào việc giải quyết một nhiệm vụ nhất định nào đó như: truyền thụ kiến thức mới, kiểm tra kiến thức cũ, thuyết phục học sinh tin vào một chân lý, một lẽ phải nào đó hoặc có khi qua lời nói biểu thị một sự đồng tình hay phản đối điều gì. Vậy năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ. Nó là một trong những năng lực quan trọng của người giáo viên. Nó là công cụ sống còn đảm bảo cho người giáo viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình. Sở dĩ như vậy là vì: bằng ngôn ngữ, truyền đạt thông tin từ giáo viên đến học sinh, bằng ngôn ngữ thúc đẩy sự chú ý và sự suy nghĩ của học sinh vào bài giảng, băng ngôn ngữ điều khiển và điểu chỉnh hoạt động nhận thức của học sinh. Năng lực ngôn ngữ của người giáo viên thường được biểu hiện cả ở nội dung và hình thức của nó, vì thế yêu cầu về ngôn ngữ của thầy giáo là phải sâu sắc về nội dung, giản dị về hình thức. Về nội dung: - Từ mỗi đơn vị biểu hiện đến toàn bài giảng, ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn, diễn tả trình bày phải chính xác, cô đọng và “đắt”. Những điều nói trên là kết quả của sự uyên thâm về hiểu biết, của sự suy nghĩ sâu sắc. - Lời nói phải phản ánh được tính kế tục và tính luận chứng để đảm bảo thông tin liên tục, logic. - Nội dung và hình thức ngôn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác nhau (thông báo tài liệu mới, bình luận câu trả lời của học sinh, biểu lộ một sự tán đồng hay bất bình). - Nhân cách của người giáo viên là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nó của mình. Dù là thông báo, bình luận, tán thưởng hay trách móc..., ngôn ngữ của người giáo viên bao giờ cũng được cân nặng bởi sức mạnh bên trong của họ. Vì thế, sức mạnh, sự lôi cuốn, lực hấp dẫn, tính điều khiển và điều chỉnh của lời nói người giáo viên là tuỳ thuộc một phần lớn vào nhân cách, vào uy tín của chính họ. Về hình thức: - Hình thức ngôn ngữ của giáo viên có năng lực thường giản di, sinh động, giàu hình ảnh, có ngữ điệu, sáng sủa, biểu cảm với cách phát âm mạch lạc trong đó không có những sai phạm về mặt tư từ học, về ngữ pháp, về ngữ âm. Người giáo viên cần suy nghĩ để lựa chọn hình thức trình bày sao cho dễ hiểu, có chiều sâu về tư tưởng, có sức lay động được tâm hồn học sinh. - Năng lực ngôn ngữ của thầy giáo còn biểu hiện ở chỗ thúc đẩy một cách tối đa sự chú ý và sự suy nghĩ của học sinh vào bài giảng. Giáo viên nên tránh những câu dài, cấu trúc từ phức tạp, những thuật ngữ và cách trình bày khó hiểu. Ngược lại, giáo viên cân nhắc những lời nói quá ngắn ngủi, quá vắn tắt thường làm cho học sinh qua khó hiểu. - Nhịp độ ngôn ngữ của giáo viên cũng có một ý nghĩa nhất định. Nếu ngôn ngữ của giáo viên đều đều, đơn điệu sẽ gây mệt mỏi rất nhanh chóng, làm cho người nghe chán chường uể oải và thờ ơ. Nhịp độ quá gấp cũng gây khó khăn trong việc lĩnh hội, chóng gây mệt mỏi, ức chế bảo vệ phát sinh nhanh. Ngược lại, nhịp độ quá chậm cũng gây uể oải và tẻ nhạt. Năng lực giao tiếp sư phạm Giáo tiếp là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm. Những hình thức chủ yếu của công tác giáo dục và học tập diễn ra trong điều kiện giao tiếp như: giảng bài, phụ đạo, thi cử, công tác cá biệt, lao động, vui chơi... Không có giao tiếp thì hoạt động của giáo viên và học sinh không thể diễn ra. Vì vậy, người giáo viên cũng phải có năng lực giao tiếp sư phạm. Đó là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục. Năng lực giao tiếp sư phạm thường được biểu hiện ở các kỹ năng chính như: - Kỹ năng định hướng giao tiếp. - Kỹ năng định vị. + Kỹ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân. + Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp. Ngoài ngôn ngữ diễn đạt, những phương tiện ngoài ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bô, nét mặt, nụ cười, ánh mắt... có thể bổ sung, hỗ trợ cho thái độ của người thầy giáo trong quan hệ tiếp xúc học sinh. Năng lực giao tiếp sư phạm không chỉ thể hiện trong việc tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh trong mọi mặt của hoạt động sư phạm. Thông qua sự giao tiếp này, giáo viên đóng góp công sức của mình vào việc gắn giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội, làm cho giáo dục cuộc sống cùng chiều với giáo dục nhà trường