Tự quản cộng đồng bào gồm: 1)nguyên tắc dân chủ cộng đồng làng xã ,
nghĩa là các thành viên đến độ tuổi nhất định đều phải có nghĩa vụ nhất định,
trong những công việc của cộng đồng, 2) trong nhóm xã hội đặc thù này tồn tại
những vị trí xã hội mang tính chất đứng đầu để điều khiển mọi hoạt động chung
có lợi cho cộng đồng, thông thuờng là những người đuợc cộng đồng chọn và bầu
cử ra theo nguyên tắc “chọn mặt gửi vàng” , 3) mọi thành viên của nhóm xã hội
này đều có những mục tiêu chung để gắn bó với nhau; 4) Cộng đồng có những
luật lệ riêng của mình để đánh giá hoạt động của mọi thành viên “ (Tống Văn
Chung – xã hội học nông thôn, NXB ĐHQGHN, 2000 tr55)
Tự quản có nghĩa là cho phép các cộng đồng xã hội được tổ chức,
điều hành các công việc, đời sống của mình. Mặt khác, có những trường hợp các
cộng đồng dân sự hình thành một cách tự phát, tồn tại một cách khách quan bên
ngoài tầm quản lí của nhà nuớc. Ví dụ: hình thành các nhóm xã hội thứ cấp. Như
thế trong trường hợp này tự quản cộng đồng là tất yếu.
Có thể nói tự quản làng xã là một hiện tượng xã hội trong đó mỗi cộng
đồng là một chủ thể xã hội (dưới danh nghĩa tập thể , nhóm xã hội, mỗi cá nhân
hay thành viên) của nó là một bộ phận, mỗi hoạt động của nó trở thành đối
tuợng quản lí của một chủ thể tập thể. Khách thể quản lý là những hoạt động
thuộc về đời sống của cá nhân được coi là có liên quan đến lợi ích chung của tập
thể (cộng đồng) và phải được cộng đồng điều chỉnh để có sự hài hoà về quyền
lợi của mỗi cá nhân trong cộng đồng đó
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2823 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tự quản làng xã, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
TỰ QUẢN LÀNG XÃ
1
1. Khái niệm :
Tự quản cộng đồng bào gồm: 1)nguyên tắc dân chủ cộng đồng làng xã ,
nghĩa là các thành viên đến độ tuổi nhất định đều phải có nghĩa vụ nhất định,
trong những công việc của cộng đồng, 2) trong nhóm xã hội đặc thù này tồn tại
những vị trí xã hội mang tính chất đứng đầu để điều khiển mọi hoạt động chung
có lợi cho cộng đồng, thông thuờng là những người đuợc cộng đồng chọn và bầu
cử ra theo nguyên tắc “chọn mặt gửi vàng” , 3) mọi thành viên của nhóm xã hội
này đều có những mục tiêu chung để gắn bó với nhau; 4) Cộng đồng có những
luật lệ riêng của mình để đánh giá hoạt động của mọi thành viên “ (Tống Văn
Chung – xã hội học nông thôn, NXB ĐHQGHN, 2000 tr55)
Tự quản có nghĩa là cho phép các cộng đồng xã hội được tổ chức,
điều hành các công việc, đời sống của mình. Mặt khác, có những trường hợp các
cộng đồng dân sự hình thành một cách tự phát, tồn tại một cách khách quan bên
ngoài tầm quản lí của nhà nuớc. Ví dụ: hình thành các nhóm xã hội thứ cấp. Như
thế trong trường hợp này tự quản cộng đồng là tất yếu.
Có thể nói tự quản làng xã là một hiện tượng xã hội trong đó mỗi cộng
đồng là một chủ thể xã hội (dưới danh nghĩa tập thể , nhóm xã hội, mỗi cá nhân
hay thành viên) của nó là một bộ phận, mỗi hoạt động của nó trở thành đối
tuợng quản lí của một chủ thể tập thể. Khách thể quản lý là những hoạt động
thuộc về đời sống của cá nhân được coi là có liên quan đến lợi ích chung của tập
thể (cộng đồng) và phải được cộng đồng điều chỉnh để có sự hài hoà về quyền
lợi của mỗi cá nhân trong cộng đồng đó
Tự quản là một sản phẩm của nhiều sự tự nguyện. Truớc hết là sự tự
nguyện của nhà nước dành quyền tự điều chỉnh cho mỗi cá nhân của cộng đồng,
2
cũng tức là dành quyền cho cộng đồng tự tổ chức điều chỉnh các hoạt động cần
thiết của nó. Thứ hai, là sự tự nguyện của người dân trong việc tham gia hay uỷ
nhiệm cho người khác tham gia vào chủ thể quản lí có tính tậpp thể. Thứ ba, đó
là sự tự nguyện xá đinh những công việc gì sẽ thuộc về khách thể của sự quản lí
bởi tập thể. Thứ tư, đó là sự tự nguyện thoả thuận những biện pháp quản lí,
chẳng hạn xác định những quy định hay những điều khoản thuởng, phạt; tự
nguyện đóng góp các nguồn tài chính cần thiết cho tập thể để thực hiện các công
việc chung.
Như vậy tự quản một mặt mang tính tự nguyện, bình đẳng nội bộ cao,
mặt khác không thể tạo thành một cộng đồng khép kín tới mức nhà nước không
thể can thiệp đuợc như trong chế độ tự trị. (Tô Duy Hợp, Luơng Hồng Quang –
2000, Phát triển làng xã , NXBVH – Thông tin Hà Nội, tr 38)
2. Sự phân biệt các khái niệm “tự quản”, “tự tri”, “dân chủ”.
Tự quản một hiện tượng xã hội tất yếu khách quan.
Trong quá trình nhận thức thực tiễn chính trị xã hội, trong hệ thống các
khái niệm, nhân loại đã làm sang tỏ các khái niệm cụ thể như sau: Tự quản, tự
trị, quản lý, dân chủ, phân quyền, đảm quyền hành chính……điều cơ bản ở chỗ,
các khái niệm này phản ánh mối quan hệ xã hội khác nhau, và xã hội hpọc
không thể không nghiên cứu và xem xét.
Các khái niệm trên đều có vai trò quan trọng trong các khoa học khác
nhau như: chính trị học, xã hội học…..nhưng vấn đề ở chỗ xã hội học xem nó
như là một sự “kiện xã hội” (Durkheim) như kà một quá trìh một hiện tượng
khách quan, vốn như nó nảy sinh trong qua trình tự tổ chức sống , hoạt động và
sinh hoạt của các chủ thể hành động xã hội.
3
Việc phân biệt các khái niệm trên có tầm quan trọng to lớn, nếu không dễ
nhầm lẫn các khái niệm này.Từ đó dễ làm cho người ta dễ nhầm lẫn khi đứng
trước một sự kiện hay một quá trình nào đó, Hay khó phân biệt đay là hiện
tượng gi? Ví dụ như “tự quản” hay “quản lý “
Điều này cho thấy khái niệm tự quản cần thiết trong sự phân biệt với
các khái niệm khác , chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa chúng. Dưới đây là
một số phân biệt :
2.1 Tự trị chỉ có sự có quyền tự quản lấy công việc của mình “thường nói
về một bộ phận trong một quốc gia ví dụ: khu tự trị, nước cộng hoà trự trị trong một
lien bàng (Nga _Pháp _Mỹ)
Tự trị là một hiện tượng có ở nhều nơi trên thế giới.Nó thường là sản
phẩm của cuộc đấu tranh giữa một cộng đồng người dân trị, hay cộng đồng xã
hội đang sống trong một khu vực đặc biệt nào đó đối với nhà nước, tức chính
quyền của một quốc gia.Với khía cạnh nào đó nó biểu thị mối quan hệ chính trị
giữa nhà nước trung ương với một cộng dodòng dân cư “cộng dodòng dân sự “
nhất định
Nội hàm của khái niệm này cho thấy nhà nứơc trung ương dành cho
cộng đồng quyền hạn “đôi khi rộng rãi “ cả về kinh tế _xã hội _ chính trị trong
nội bộ cộng đồng.
Thứ 2, nhà nước chỉ nắm hai chủ quyền (mà khu tự trị hay cộng hoà tự
trị không có ) _điểm khác với nhà nước :
- Chủ quyền lãnh thỗ
- Quyền ngoại giao
4
Như vậy , tự tổ chức chỉ là một cộng đồng xã hội ngoài quyền tổ chức tự
cai trị nội bộ, phải nhượng lại quyền ngoại giao và quyền bảo toàn lãnh thỗ cho
nhà nước trung ương .
Với tư cách tự cai trị , tự trị (cộng đồng) chỉ - cộng đồng thực hiện các
quyền :lập pháp , tư pháp , hành pháp nhưng chỉ trong lãnh thỗ của mình dưới
khuôn khổ chung của nhà nước . Như thế, tự trị là khái niệm tự quản của một
quốc gia chưa hoàn chỉnh (chưa đầy đủ ) , mà trong đó có chính quyền và công
dân, có người cai trị và nị trị, có ngời quản lý và bị quản lý, có áp bức và có đấu
tranh…….có đầy đủ các mối quan hệ giai cấp – xã hội đa dạng và phong phú
2.2 Dân chủ
Là khái niệm chỉ mối quan hệ chính trị giữa nhà nước và công dân
nhằm đảm bảo cho các công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Với
nghĩa vụ đó nó chỉ phương thức , cách thức công tác, tôn trọng và thực hiện
quyền mọi người tham gia bàn bạc và quyết định các công việc chung.Như vậy
dân chủ về bản chất là mối quan hệ chính trị giữa nhà nước và công dân của nó
trong đó xác định quyền của mỗi công dân tham gia xây dựng nhà nước và giám
sát hoạt động nhà nước. Tham gia xây dựng cả về thể chế bộ máy, dân sự, giám
sát hoạt động của n hà nước là giám sát cả trước và sau mỗi công việc .Tuy
nhiên dân chủ có nhiều hình thức : dân chủ chính trị, dân c hủ cộng đồng, dân
chủ nhóm…..Nghĩa là mọi thành viên có quyền tham gia và thực hiện các vai trò
xã hội của mình trước các thành viên khác là như nhau.Sự giám sát này phải
theo một trình tự và thủ tục pháp luật chứ không phải tuỳ tiện
Đối tượng của dân chủ là nhà nước và công việc của nhà nước. Công
dân xây dựng nhà nước và tham gia giám sát các hoạt động của nhà nước không
thông qua khâu trung gian, một tổ chức nào, việc thực hiện ý chí của công dân
phảo có tính nhà nước.Nhà nước là biểu hiện tập trung quyền lực của công dân.
5
2.3 .Các dạng thức của các dạng tự quản làng xã hiện nay thể hiện ra ở
chỗ nó được thể chế thành một bộ máy điều hành công việc chung của cộng
đồng, tổ chức thực hiện các quyết nghị của hội nghị thôn, làng, ấp bản….mà tổ
chức thực hiện những chủ trương, quyết định của hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân xã và cấp trên vào trong làng xã.Tuy nhiên, bộ máy điều hành này của
thôn, làng, ấp, bản…hiện nay không hoàn toàn độc lập với bộ máy quản lý nhà
nước, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đói trong một số lĩnh vực tổ chức
sinh hoạt chung cho mọi thành viên trong làng.
Trong lịch sử các công trình cho thấy “tự quản làng xã “ là sự tự quản lý
mình thông qua : “lệ làng và hương ước”. “Lệ làng là những quy phạm hoạt
động của mỗi thành viên trong làng, còn hương ước tức là lệ làng thành văn. Lệ
làng cũng có tính cưỡng chế. Cái khác nhau giữa luật nước và lệ làng chỉ yếu là
ở lực lượng nào duy trì các quy phạm đó.Luật nước thì chủ yếu dựa vào quyền
vào quyền lực chính quyền (có công an, quân đội , toà án…)còn lệ làng dựa vào
truyền thống được cộng đồng chấp nhận và tuân thủ được hình thành từ kinh
nghiệm của con người của cộng đồng truyền từ đời này sang đời khác”
“Kết cấu quyền lực mang tính tự quản của làng xã phần nào được xây
dựng trên cơ sở quyền trưởng lão. Dân gian Việt Nam có câu “triều đình trọng
tước, làng trọng xỉ” … “sự tồn tại của lệ làng chính là sự nhân nhượng của luật”.
“Nhìn chung, lệ làng phải tuân theo luật nước, thậm chí còn bổ sung cho luật
nứơc”
“Hương ước là công cụ tự điều khiển, tự điều chỉnh của làng xã…Hương
ước làng xã bao gồm nhiều nội dung kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường…Cụ
thể:
- Quy định về những thiết chế xã hội trong làng như: Hội đồng kỳ
mục, lý dịch, dòng họ ngụ cư, chính cư...Quy định về những thứ bậc xã hội: già
6
trẻ , nam nữ…Hương ước đề cao lão quyền. Người già trong làng rất được tôn
trọng.
- Quy định những điều khoản giữ gìn trật tự, trị an thôn xóm, đồng
điền và môi trường.
- Quy định những nghĩa vụ đối với nhà nước , thuế, phu phen, lính
tráng.
- Quy định việc giữ gìn phong tục, tập quán, truyền thống gia đình,
họ hàng, thôn xóm quan hệ thân thiết, nam nữ…Nhiều hương ước còn đề cao
học hành thi cử,…
Các hương ước đều có những khoản thưởng phạt rõ ràng nhằm khuyến
khích những hoạt động có lợi cho cộng đồng và trừng phạt những kẻ làm
phương hại nó.Tinh thần của hương ước là tinh thần tự quản cộng đồng.Tinh
thần này nếu phát huy đúng hướng, phù hợp với hiến pháp và pháp luật.
3, Vai trò của thể chế tự quản đối với mối quan hệ nhà nước và xã
hội dân sự.
Từ cấu trúc tự qiản hiện nay có thể rút ra một số kết luận:
1, Xã hội dân sự ở nông thôn Việt Nam vẫn luôn tồn tại mà trên nó là
nhà nước.
2, Trong mọi xã hội truyền thống và hiện đại luôn song hành mối liên hệ
qua lại lẫn nhau giữa xã hội dân sự và nhà nước.Trong nông thôn, các chủ thể xã
hội của xã hội dân sự có những mô hình và cấp độ tồn tại khác nhau đa dạng và
phong phú.
3, Trong các làng xã nông thôn , sự hoạt động của nó bị chi phối bởi sự
chỉ đạo của thể chế chính trị xã hội (Đảng, đoàn thể chính trị xã hội). Ban quản
7
lý thôn và các ban tự quản khác cũng chịu sự chỉ đạo của thể chế chính trị - xã
hôi.
4, Các “chân rết, “cánh tay dài” của nhà nước chỉ đạo các ban quản lý
của thôn làng “ban tự quản thôn, ban an ninh,...Các ban khác đều chịu sự chỉ đạo
của trưởng thôn, và dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng trong thôn.
5, Các thể chế dân sự do dân lập ra hoạt động trong khuôn khổ chi phối
của hương ước làng mà bản thân hương ước lại chịu sự hương ước của pháp
luật: mọi hoạt động đều bị giới hạn trong các quy phạm cho phép của quy chế
dân chủ cơ sở. Có thể nói, sự nhất quán trong quản lý cấp cộng đồng từ nhà
nước, và một phần tự chủ từ xã hội dân sự đã bổ sung cho nhau. Vì thế trong các
cộng đồng xã hội nông thôn luôn trong xu thế ổn định, hài hoà. Nó làm cho mối
quan hệ nhà nước - xã hội dân sự luôn ở thế “hoà, hợp”
6, Các ban tự quản theo pháp luật quy định và các ban tự quản do dân tự
cử ra đều có vai trò nhất định trong đời sống sinh hoạt của cộng đồng nó đảm
bảo cho làng xã trong xã hội dân sự ở nông thôn tạo thành một khối đoàn kết,
tạo ra sự đồng thuận xã hội, tạo ra sự hỗ trợ các thành viên trong mỗi thể chế ,
trong làng xã. Và mỗi thể chế đều mang một ý nghĩa củng cố gắn bó với cộng
đồng. Đây là truyền thống tốt đẹp trong mỗi cộng đồng dân sự ở nông thôn.
7, Với cấu trúc này “nhà nước” và “xã hội dân sự” không đối lập nhau
mà bổ sung cho nhau , hoàn thiện hoạt động quản lý xã hội. Nó tạo ra “thế ứng
xử” giữa cộng đồng xã hội dân sự và nhà nước”. Vấn đề , kiểm soát sâu hơn ,
nhà nước cần có đạo luật về lập các phường, hội. Đó là sự cụ thể hoá Hiến Pháp.
8, Trong cộng đồng dân sự, hương ước và phong tục tập quán, tín
ngưỡng vẫn là công cụ quản lý xã hội quan trọng
8
4. Các tổ chức chính thức và các kiểu dạng “tư quản” trong thôn, ấp
bản hiện nay.
Điều quan trọng là trong làng xã hện nay, việc lãnh đạo và tổ chức các
hoạt động đều thống nhất theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện
mọi mặt hoạt động của cộng đồng, các đoàn thể có vai trò vận động quần chúng
và các thành viên của tổ chức mình thực hiện các nghị quyết của nhà nước. Các
tổ chức chính thức bao gồm:
Chi bộ, hay tổ chức Đảng của thôn, làng, ấp, bản…
Chi hội nông dân.
Chi đoàn thanh niên, có vai trò lãnh đạo thanh niên ngoài đoàn, đội,
thiếu niên tiền phong và đội nhi đồng.
Chi hội cựu chiến binh,
Chi hội phụ nữ
Ban (tổ) công tác mặt trận thôn,
Chi hội người cao tuổi
Các nhân vật bán chính thức trong thôn, làng, ấp, bản…làm nhiệm vụ
chuyên môn với tư cách là “chân rết” (cánh tay dài) của chính quyền nhà nước:
Công an viên thôn
Y tế thôn bản (ở vùng sâu vùng xa)
Thanh tra viên thôn
Cộng tác viên dân số với chức năng tuyên truyền dân số -- kế hoạch
hoá gia đình.
9
Với sự hiện diện của các tổ chức và những vị trí bán chính thức với vai trò
tổ chức thực hiện công việc nhà nước trong thôn, làng, ấp, …làm cho xã hội
nông thôn Việt Nam hiện đại làm giảm và đánh mất đi tính tự trị, chỉ còn là sự
tự quản trên một số hoạt động chung của cộng đồng. Sự tự quản của làng xã
nông thôn Việt Nam không bị mất đi, mà đó là “tự quản có mức độ” (thuật ngữ
cử GS Tô Duy Hợp, 2000)
Sự tự quản đó được thực hiên trong khuân khổ có tính pháp lí do quy
chế dân chủ ở cơ sở quy định như sau: “ Điều 17: thôn làng, ấp, bản có thể thành
lập các ban hoà giải, ban an ninh, tổ bảo vệ sản xuât, ban kiến thiết. Các tổ chức
này do dân bầu, trưởng thôn, làng, ấp, bản phối hợp với ban công tác mặt trận
quản lý và chỉ đạo” [ Quy chế dân chủ ở cơ sở]
5. Các đặc trưng của tự quản làng xã :
Khi nghiên cứu về làng xã đồng bằng Bắc bộ Nguyễn Đức Truyến nêu ra
một số đặc điểm tự quản làng xã. Theo ông những đặc điểm đó là:
5.1 Sự tự trị tương đối của cộng đồng nông dân với xã hộ bao trùm lên nó,
thống trị nhưng nó lại bao dung với những đặc tính riêng của chúng
5.2 Tầm quan trọng về cấu trúc của nhóm gia đình trong tổ chức đời sống
kinh tế của đời sống xã hội và của cộng đồng.
5.3 Hệ thống kinh tế có tính tự cung tự cấp tương đối, không có sự phân
biệt giữa sản xuất và tiêu thụ và luôn duy trì các mối quan hệ với kinh tế bao
trùm lên nó.
5.4 Cộng đòng địa phương được đặc trưng bởi các mối quan hệ nội tại có
sự biểu hiện lẫn nhau và cac mối quan hệ lỏng lẻo cả nó với các cộng đồng bao
quanh.
10
5.5 Chức năng quyết định của các vai trò trung gian, của các chức sắc
giữa các cộng đồng nông dân và xã hội bao trùm lên nó.( báo cáo : quan hệ cộng
đông trong thời kì đổi mới ĐBSH. Đề tài tiềm lực 1998 do Nguyễn Đức Truyến
làm chủ nhiệm đề tài. Phòng XHH văn hoá, viện xã hội học)
Tự quản là một sản phẩm của nhiều sự tự nguyện.
Trước hết đó là sự tự nguyện của nhà nước dành quyền tự điều chỉnh cho
mỗi cá nhân cộng đồng hay rộng hơn là một thành viên của nó ( Ví dụ hộ gia
đình trong lang, hay mọt suất đing trong dòng họ) điều đó có nghĩa là dành
quyền cho cộng đồng đó tự tổ chức, tự điều chỉnh, kiểm soát các hoạt động cần
thiết của nó.
Thứ hai, là sự tự nguyện của người dân trong việc tham gia hay uỷ
nhiệm (uỷ quyền ) cho người khác khi tham gia vào chủ thể quản lí có tính tập
thể. Ví dụ minh hoạ cho vấn đề này là sự uỷ quyền cho ban quản lí thôn.
Thứ ba, đó là sự tự nguyện xác định những hoạt động gì, những công
việc gì sẽ thuộc về khách thể quản lí bởi tập thể. Ví dụ ở nông thôn việc xây
dựng đường xá, hệ thống điên.. đều do các thành viên thảo luận và quyết định.
Nếu vượt qua khuân khổ này thì lúc đó có những người được uỷ quyền sẽ mất
tín nhiệm trước cộng đồng đó.
Thứ tư, là sự tự nguyện thoả thuận các biện pháp quản lí, các hoạt
động. Ví dụ: để quản lí việc bảo vệ các thành viên xây dựng các điều khoản
trong quy ước làng, quy định các mức thưởng phạt khác nhau cho những vi
phạm cụ thể đối với chuwnr mực mà các thành viên trong làng xã đã thoả thuận.
Điều đó cũng hàm chứa sự tự nguyện cảu các tành viên cũng như đóng
góp tài chính, vật chất cần thiết cho tập thể để tập thể phục vụ hiện ccacs công
11
việc chung của cộng đồng. Ví dụ như hiện tượng cứng hoá kênh mương ở nông
thôn hiện nay.Vốn để làm việc này một phần nhà nước đầu tư, phần còn lại do
các thành viên thoả thuận về lao động và tiền của. Chính vì thế nó cho thấy năng
lực cộng đồng.
Thứ năm, giống như bất kỳ chức xã hội nào cộng đồng tự quản cũng cần
đến quyền lực để buộc mọi thành viên của nó phảo phục tùng và tuân theo ý chí
tập thể, về thực chất là quyết định của tập thể. Chính vì thế, trong quy chế dân
chủ cấp cơ sở, chỉ ra rằng ở trưởng thôn, một mặt phải thực hiện chỉ thị, nghị
quyết cảu hộ đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân xã và các quyết nghị của hội
nghị dân làng, ấp bản. Tuy nhiên trưởng thôn ở đây được sự uỷ quyền để thực
hiện các nghị quyết của làng bản. Và anh ta không có quyền đề ra các nghị quyết
đó, song có quyền phác thảo trình bày để định hướng cho các thành viên thảo
luận tập trung, tránh tản mạn và lạc hướng.
Vấn đề ở đây quyền lực này không phải quyền lực chính trị nghĩa là
quyền lực của nhà nước, mà chỉ là quyền lực xã hội, nó có được nhờ vào ý chí
chung , tự nguyện của thành viên cộng đồng “gửi, uỷ thác” vào. Người được sử
dụng quyền lực đó là do sự thoả thuận và bầu cử của các thành viên một cách
bình đẳng.
Thứ sáu, từ đó rút ra rằng tự quản làng xã mang tinh tự nguyện, bình
đẳng nội bộ cao nhất nhưng khong thể tạo ra một cộng đồng khép kín tới mức
nhà nước can thiệp như chế độ tự trị. Nếu như tự trị dễ dàng chuyển thành độc
lập thì tự quẩn không có được khả năng này. Bảy hệ chuẩn mực của tự quản chỉ
là thoã thuận trên cơ sở tự nguyện và trên bối cảnh của pháp luật quy định. Còn
tự trị lại có hệ pháp lý riêng.
Tự quản là một khái niệm hoàn toàn có tính xã hội khong phải là khái
niệm chính trị. Điều này biểu hiện ở chỗ :tự quản là cách thức tổ chức quản lý
12
của cộng xã hội không cần đến sự hỗ trợ can thiệp của nhà nước , nó tồn tại tự
nhiên ở những nơi không có nhà nước. Về mặt lịch sử nó có trước nhà nước và
cuối cùng nó la cái đích của xã hội vươn đến. Điều đó được mô phỏng bằng sơ
đồ sau:
t6t6544
Tự quản xã hội Quản lý xã hội Tự quản xã
nguyên thủy (khi có nhà hội không có
nước) nhà nước
(tự quản xã Tự Quản công
nguyên thủy)
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, tự quản này tồn tại dưới hình thức
khác _tự quản cộng đồng(ví dụ làng xã , họ hang, các phường…). Điều đó hiển
nhiên. Trong xã hội có giai cấp (có nhà nước) sự tồn tai của chế độ tự quản với
nội dung cụ thể của nó không phải chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của cộng đồng dân sự nó tồn tại trong khuôn khổ pháp luật được nhà nước
thừa nhân và cho phép.
Như vậy, tự quản cộng đồng là hiện tượng phổ biến đa dạng cho việc
thực hiện dân chủ và đảm bảo cho dân chủ được thực hiện hoá. Nó bổ sung cho
quản lý xã hội nói chung. Nó tồn tại khách quan và quan hệ khăng khít với quản
lý nhà nước.
Tự quản có nghĩa là tự quản lý cộng đồng đó. Nó bao hàm:
+ Sự thoã thuận chung của các thành viên.
+ Một số hệ thống chuẩn mực mà mọi thành viên đều nhất trí.
+ Một hệ thống những vị trí xã hội, có vai trò thay mặt các thành viên
điều khiển mọi hoạt động chung với cơ chế uỷ quyền và sự tự nguyện đóng vai
trò đó.
13
+ Mọi hoạt động chung này dưới sự giám sát của cả cộng đồng mà trong
đố mỗi thành viên có quyền kiểm soát hoạt động điều hành của người được uỷ
quyền.
+ Kết quả của hoạt động chung do chính cả cộng đồng đánh giá.
+ Phạm vi hoạt động tuy có khác với luật định nhưng nằm trong khuân
khổ của luật định.
Tóm lại tự quản cộng đồng đa dạng và phong phú: tự quản của các
nhóm xã hội, tự quản làng xã, tự quản gia đình, tự quản cộng đồng dân tộc, sắc
tộc.
6. Hương ước và luật tục – công cụ quản lý quan trọng của tự quản
làng xã.
Hương ước là một hệ thống các lệ làng, có thể coi đó là hệ thống các
luật tục thành văn hay bất thánh văn. Hương ước hàm chưa những điều giáo
huấn về lối sống, gọi là “ thuần phong mĩ tục” của làng. Nó đề ra những hình
thức trừng phạt đối với việc làm trá