Một con thuyền nhỏ bé mỏng manh đang lênh đênh trên đại dương bao la, rộng lớn. Một con thuyền đang mất phương hướng giữa đại dương trong một không gian mịt mù không một ánh đèn, chỉ có những tia sáng nhỏ ánh lên từ mắt của những người thủy thủ và một luồng sáng rực rỡ phát ra từ đôi mắt sâu thẳm của vị thuyền trưởng. Số phận của đất nước Việt Nam trong những ngày tháng nô lệ ấy chẳng khác nào con thuyền đang lênh đênh trên đại dương bao la không xác định được phương hướng. Tuy nhiên “thất bại chưa thua, đầu hàng mới thua”,”còn nước còn tát”. Trong thời điểm đen tối ấy vẫn có rất nhiều những người con anh hùng của đất nước An Nam nhỏ bé đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Ái Quốc người anh hùng Nghệ An, một người An Nam nhỏ bé nhưng đã làm chấn động cả thế giới với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị thuyền trưởng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến với bến bờ thành công, đất nước Việt Nam đến với bến bờ độc lập, tự do, hạnh phúc- đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở để sáng tạo nên tư tưởng của chính mình: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. Tư tưởng Hồ Chí Minh là chiếc “la bàn” đã đưa cách mạng Việt Nam đến bến bờ thành công và hơn thế nữa. Với tư tưởng đúng đắn sáng tạo- tư tưởng Hồ Chí Minh- đã đưa xã hội Việt Nam đến bến bờ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, một vùng đất mà ở đó mọi người dân đều làm chủ, mọi tài sản đều là của chung, một xã hội không có giai cấp, không có bóc lột, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên mặc dù chúng ta đang ở trên bến bờ xã hội chủ nghĩa nhưng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì vẫn đang là mục tiêu phấn đấu của Đảng và dân ta.
Trên cơ sở đó mà nhóm chúng em đã chọn và tiến hành nghiên cứu” Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, em mong rằng đề tài sẽ giúp người đọc biết rõ hơn về con đường mà chúng ta đang đi và nhận thức về nó sâu sắc hơn, từ đó sẽ xác định được những nhiệm vụ mà chúng ta cần phải làm trong tương lai. Đề tài nhóm em nghiên cứu có kết cấu như sau:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội .
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 28673 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Một con thuyền nhỏ bé mỏng manh đang lênh đênh trên đại dương bao la, rộng lớn. Một con thuyền đang mất phương hướng giữa đại dương trong một không gian mịt mù không một ánh đèn, chỉ có những tia sáng nhỏ ánh lên từ mắt của những người thủy thủ và một luồng sáng rực rỡ phát ra từ đôi mắt sâu thẳm của vị thuyền trưởng. Số phận của đất nước Việt Nam trong những ngày tháng nô lệ ấy chẳng khác nào con thuyền đang lênh đênh trên đại dương bao la không xác định được phương hướng. Tuy nhiên “thất bại chưa thua, đầu hàng mới thua”,”còn nước còn tát”. Trong thời điểm đen tối ấy vẫn có rất nhiều những người con anh hùng của đất nước An Nam nhỏ bé đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Ái Quốc người anh hùng Nghệ An, một người An Nam nhỏ bé nhưng đã làm chấn động cả thế giới với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị thuyền trưởng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến với bến bờ thành công, đất nước Việt Nam đến với bến bờ độc lập, tự do, hạnh phúc- đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở để sáng tạo nên tư tưởng của chính mình: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. Tư tưởng Hồ Chí Minh là chiếc “la bàn” đã đưa cách mạng Việt Nam đến bến bờ thành công và hơn thế nữa. Với tư tưởng đúng đắn sáng tạo- tư tưởng Hồ Chí Minh- đã đưa xã hội Việt Nam đến bến bờ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, một vùng đất mà ở đó mọi người dân đều làm chủ, mọi tài sản đều là của chung, một xã hội không có giai cấp, không có bóc lột, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên mặc dù chúng ta đang ở trên bến bờ xã hội chủ nghĩa nhưng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì vẫn đang là mục tiêu phấn đấu của Đảng và dân ta.
Trên cơ sở đó mà nhóm chúng em đã chọn và tiến hành nghiên cứu” Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, em mong rằng đề tài sẽ giúp người đọc biết rõ hơn về con đường mà chúng ta đang đi và nhận thức về nó sâu sắc hơn, từ đó sẽ xác định được những nhiệm vụ mà chúng ta cần phải làm trong tương lai. Đề tài nhóm em nghiên cứu có kết cấu như sau:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội .
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Ở bài báo cáo này nhóm em sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh, phân tích… Trong quá trình làm bài, chúng em đã rất cố gắng nhưng do trình độ và sự hiểu biết về lĩnh vực này còn hạn chế, vì vậy bài viết này chắc chắn sẽ không tránh được những thiếu sót hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp, hướng dẫn thêm của các cô.
Chúng em cũng xin chân thành cám ơn cô Phan Thị Thanh Lý đã tận tình hỗ trợ, giảng dạy, chỉ dẫn nhóm em nói riêng và các bạn sinh viên nói chung trong quá trình học, cũng như thực hiện bài báo cáo này.
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI:
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về chủ nghĩa xã hội từ phương diện kinh tế.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo và đưa ra nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam. Người khẳng định vai trò quyết định của sức sản xuất đối với sự phát triển của xã hội cũng như đối với sự chuyển biến từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trên cơ sở nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các giá trị đặc thù mang tính nhân bản thấm sâu vào các quan hệ xã hội. Bác cũng khẳng định, trong lịch sử loài người có 5 hình thức quan hệ sản xuất chính, và nhấn mạnh “ không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các bước phát triển tuần tự như vậy”. Bác sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về chủ nghĩa xã hội từ khát vọng giải phóng dân tộc, nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để và xu hướng phát triển của thời đại.
Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là tìm một ý thức hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. (Bậc cách mạng tiền bối hoặc là có ý thức giành độc lập dân tộc lại không có ý thức canh tân đất nước; hoặc là có ý thức canh tân đất nước lại kém ý thức chống Pháp). Cách mạng Việt Nam đòi hỏi có một giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư tưởng độc lập, có ý thức tổ chức và trở thành giai cấp tự giác đứng lên làm cách mạng. Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy phong trào yêu nước Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng về đường lối, vì vậy cách mạng chưa đem lại giải phóng dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Cách mạng tháng mười Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho giải phóng dân tộc ở phương Đông: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng CNXH trong dân.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn mác- xít. Chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Giải quyết tốt quan hệ cá nhân và xã hội theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen trong bản tuyên ngôn của Đảng Cộng sản mà hai ông công bố tháng 2/ 1848: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mỗi người.
Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về từ tr chủ nghĩa xã hội truyền thống lịch sử, văn hoá và con người Việt Nam.
Qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng là quá trình xây dựng một nền văn hóa mà trong đó kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng nghìn năm của dân tộc ta, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Từ đặc điểm lịch sử dân tộc: Nước ta không trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ, mang đậm dấu ấn phong kiến phương Đông, mâu thuẫn giai cấp không gay gắt, quyết liệt, kéo dài, như ở phương Tây, do đó hình thành Quốc gia dân tộc từ sớm; Ngay từ buổi đầu dựng nước, chúng ta liên tục phải đấu tranh chống ngoại xâm, hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống; Là nước nông nghiệp, lấy đất và nước làm nền tảng với chế độ công điền hình thành cộng đồng thêm bền chặt. Tất cả điều này là giá trị cơ bản của tinh thần và tư tưởng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Tinh thần yêu nước, yêu thương đùm bọc trong hoạn nạn đấu tranh, cố kết cộng đồng Quốc gia dân tộc.
Từ truyền thống văn hoá lâu đời, bản sắc riêng: đó là nền văn hoá lấy nhân nghĩa làm gốc, trừ độc, trừ tham, trọng đạo lý; nền văn hoá mang tính dân chủ; có tính chất khoan dung; một dân tộc trọng hiền tài; hiếu học...Hồ Chí Minh quan niệm, chủ nghĩa xã hội là thống nhất với văn hoá, “chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và giải phóng con người”.
Từ tư duy triết học phương Đông: coi trọng hoà đồng, đạo đức nhân nghĩa. Về phương diện đạo đức, Người cho rằng: chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh nhận thức về chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hoá. Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, đóng góp vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội từ tư duy độc lập, sáng tạo, tự chủ.
Đặc điểm của định hướng tư duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ sở thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học và tình cảm cách mạng. Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hoá.
Hồ Chí Minh nhận thức tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hoá.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội:
Quan điểm của các nhà kinh điển.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thì chủ nghĩa xã hội không phải là một hình thái kinh tế -xã hội mà chỉ là một giai đoạn, một trình độ phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lênin viết: “Xã hội cộng sản, đó là một xã hội trong đó tất cả là của chung: ruộng đất, nhà máy, lao động chung của mọi người”. Tuy nhiên, khi gọi chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cộng sản thì Lênin đã khẳng định rằng đó chưa phải là chủ nghĩa cộng sản phát triển trên những cơ sở của chính nó, chưa phải là chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn. Mà trái lại, đó mới chỉ là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Khi giải thích những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin viết: “... Về mặt khoa học, thì sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thật là rõ ràng. Cái mà người thường gọi là chủ nghĩa xã hội, thì C.Mác gọi là giai đoạn “đầu” hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa xã hội với tư cách là một giai đoạn, một nấc thang của xã hội mới, là xã hội trực tiếp phát sinh ra từ chủ nghĩa tư bản thì nó không chỉ đối lập một cách chung chung với chủ nghĩa tư bản mà nó còn là một xã hội phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản. Điều này được thể hiện ở chỗ, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản bởi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là vì con người.
Trên cơ sở đó, chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định rằng, xét cho đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, quyết định nhất cho thắng lợi của chế độ mới. Chủ nghĩa tư bản đã lật đổ được chế độ phong kiến bởi nó đã tạo ra một năng suất lao động cao hơn chưa từng thấy so với chế độ phong kiến. Do đó, chủ nghĩa tư bản cũng có thể bị lật đổ, bởi chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Và một điều nữa là, khác với chủ nghĩa tư bản, những sản phẩm của chủ nghĩa xã hội được làm ra là nhằm đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của mọi thành viên trong xã hội chứ không nhằm nô dịch con người.
Và để phân biệt sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, Lênin đã đưa ra một số phác thảo về chủ nghĩa xã hội, được thể hiện ở những điểm sau:
Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí. Lênin đánh giá rất cao vai trò to lớn của nền đại công nghiệp cơ khí đối với chủ nghĩa xã hội. Trong đó, ông đặc biệt chú ý đến vai trò của điện lực đối với công cuộc xây dựng xã hội mới. Bởi, ông coi điện lực chính là cơ sở kỹ thuật mới để xây dựng kinh tế, là cơ sở để xây dựng nền sản xuất hiện đại. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà Lênin đã viết rằng: Chủ nghĩa cộng sản là Chính quyền xô- viết cộng với điện khí hóa toàn quốc. Và nếu nước Nga được bao phủ bằng một mạng lưới dày đặc các trạm phát điện thì công cuộc xây dựng kinh tế cộng sản chủ nghĩa ở Nga sẽ trở thành kiểu mẫu cho châu Âu và châu Á xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Như vậy, Lênin đã cụ thể hóa về cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí. Nhưng theo Lênin, bản thân nền đại công nghiệp hiện đại không dung hợp với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa; nó đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Hai là, chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Trong những luận giải của mình về chủ nghĩa xã hội, Lênin còn nêu thêm nguyên nhân chủ nghĩa xã hội đã tạo ra được một năng suất lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản là do những yếu tố vốn có của chủ nghĩa xã hội, yếu tố này không thể có được trong lòng chủ nghĩa tư bản. Đó là cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Lênin khẳng định kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của chủ nghĩa tư bản là kỷ luật đói; còn kỷ luật của chủ nghĩa xã hội là kỷ luật tự giác. Theo ông, kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa xã hội sở dĩ cao hơn so với kiểu tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa tư bản là vì nó dựa vào một kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao động. Song, theo Lênin, để có được cách tổ chức lao động mới thì cần phải thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát toàn dân.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. Hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động đó được thực hiện trên cơ sở của sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm.
Ba là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Theo Lênin, phân phối theo lao động là cách thức phân phối trong giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách thức phân phối theo lao động là thích hợp nhất với chủ nghĩa xã hội, bởi vì nó được dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi người làm được bao nhiêu sản phẩm thì được hưởng hết bấy nhiêu. Trái lại, tổng sản phẩm do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu dùng cá nhân, cho cả tích lũy tái sản xuất mở rộng và cho cả tiêu dùng công cộng của xã hội. Tiêu dùng cá nhân chỉ là một phần trong tổng sản phẩm do lao động của người công nhân làm ra. Tuy nhiên, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên thực tế, những phần không phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân những người công nhân vẫn thuộc về họ, vẫn nhằm đảm bảo lợi ích cơ bản, lâu dài, chung cho mọi thành viên trong xã hội.
Lênin chỉ rõ cách phân phối sản phẩm theo lao động được dựa trên hai nguyên tắc: “người nào không làm thì không ăn”; “số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số sản phẩm ngang nhau”.
Do đó, Lênin cho rằng xã hội cần phải kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt mức độ lao động và mức độ tiêu dùng của từng người bởi dưới chủ nghĩa xã hội vẫn còn nhiều người trốn tránh lao động, muốn làm ít hưởng nhiều, tránh việc nặng tìm việc nhẹ…
Bốn là, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Lênin đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Bởi, ông cho rằng chính chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ của quần chúng nhân dân lao động. Do đó, để giải phóng người lao động thì cần phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Lênin khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ nghĩa...”. Đồng thời, Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của mọi công dân mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở hữu của bọn địa chủ và tư bản.
Như vậy, Lênin cũng coi một trong những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ chế độ tư hữu, nhưng không phải chế độ tư hữu nói chung mà là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện..
Tiếp thu những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong các tác phẩm của mình, Lênin đã khẳng định sự áp bức, bóc lột là tai họa lớn đối với người lao động. Sự thay thế của các xã hội trước chủ nghĩa xã hội chẳng qua cũng chỉ là sự thay thế của các hình thức áp bức, bóc lột đối với người lao động mà thôi. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội thì con người mới có khả năng được giải phóng khỏi các hình thức áp bức và bóc lột đó khỏi tình trạng dân tộc này thống trị dân tộc khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự gần gũi và sự hợp nhất giữa các dân tộc.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội thực hiện sự bình đẳng xã hội.
Lênin khẳng định rằng cơ sở của mọi sự bất bình đẳng xã hội và bất bình đẳng chính trị là do sự phân chia xã hội thành giai cấp gây ra. Do đó, để xóa bỏ mọi bất bình đẳng xã hội và bất bình đẳng chính trị thì cần phải xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp; và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được vấn đề đó. Sở dĩ Lênin khẳng định như vậy là vì dưới chủ nghĩa tư bản nền kinh tế thị trường không những còn tồn tại mà quyền lực của đồng tiền và sức mạnh của tư bản còn được giữ vững. Khi quyền lực của đồng tiền còn được giữ vững thì không thể nói đến sự bình đẳng được. Từ đó, ông đã chỉ ra rằng không những ruộng đất, mà cả lao động của con người, bản thân con người, lương tâm, tình yêu và khoa học, tất cả nhất định đều để bán chừng nào còn quyền lực của tư bản.
Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề bình đẳng dưới chủ nghĩa xã hội thì điều đó không có nghĩa là sự ngang bằng nhau về mọi phương diện. Bởi, chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được sự bình đẳng hoàn toàn về mọi mặt, đặc biệt là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của các cá nhân. Trái lại, khi nói tới bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội thì phải luôn hiểu rằng đó là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người.
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thực hiện sự bình đẳng hoàn toàn, sự bình đẳng về mọi phương diện, bởi vì dưới chủ nghĩa xã hội vẫn thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, vẫn còn sự khác biệt giữa các giai cấp, sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, v.v... Những khác biệt đó cho thấy còn tồn tại những bất bình đẳng xã hội. Mặc dù vậy, chủ nghĩa xã hội vẫn là xã hội bình đẳng hơn so với chủ nghĩa tư bản. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá trình khắc phục và xoá bỏ dần những bất bình đẳng trong xã hội.
Trên đây chưa phải là toàn bộ những phác thảo của Lênin về chủ nghĩa xã hội, nhưng điều này đã cho thấy những quan điểm cấp tiến của ông khi đưa ra những dự đoán về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do những điều kiện lịch sử quy định cho nên bản thân ông cũng không tránh khỏi những thiếu sót khi đưa ra một số nhận định về chủ nghĩa tư bản, hoặc một số dự đoán về chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của chủ nghĩa xã hội là thống nhất với các nhà kinh điển nhưng với cách diễn đạt ngôn ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh thì những vấn đề đầy chất lý luận chính trị phong phú, phức tạp được biểu đạt bằng ngôn ngữ của cuộc sống nhân dân Việt Nam rất mộc mạc, dung dị, dễ hiểu bởi Người bày tỏ quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ trong một bài viết hay trong một cuộc nói chuyện mà tùy từng lúc, từng nơi, tùy từng đối tượng người đọc, người nghe mà Người có cách diễn đạt khác nhau.
Bằng thực tiễn chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vào thời điểm khác nhau Bác nêu bản chất của chủ nghĩa xã hội thông qua các cách định nghĩa khác nhau là:
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống: Làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, mọi người đều có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Mục tiêu là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội là một mặt nào đó (kinh tế, chính trị…). Nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta. Người viết:… “lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em…”.
- Hồ Chí Minh tiếp cận bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: không có người bóc lột người, ai cũng phải lao động, có quyền lao động; thực hiện công bằng, bình đẳng… “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng tự do”, “là đoàn kết, vui khoẻ”…
- Hồ Chí Minh tiếp cận với chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó là phải gắn với phát triển khoa học kỹ thuật “nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”. do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể khá