Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một tư tưởng nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ đạo quá trình đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào. Tư tưởng đó phản ánh khát vọng độc lập, tự đo, hoà bình của dân tộc Việt Nam, nâng cao lên một chất lượng mới tư tưởng lấy đại nghĩa để thắng hung tàn của dân tộc ta, thực sự động viên, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của nhân dân vào cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam.
28 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 23688 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một tư tưởng nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ đạo quá trình đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào. Tư tưởng đó phản ánh khát vọng độc lập, tự đo, hoà bình của dân tộc Việt Nam, nâng cao lên một chất lượng mới tư tưởng lấy đại nghĩa để thắng hung tàn của dân tộc ta, thực sự động viên, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của nhân dân vào cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam.
Nghiên cứu tưởng nhân văn Hồ Chí Minh phù hợp với tư tưởng nhân văn thời đại là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, đã thu hút các lực lượng tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh, cũng như các cuộc chiến tranh yêu nước nhằm giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do của nhân dân ta, chống các đế quốc to xâm lược. Chính tư tưởng nhân văn của Người đã phân hoá, cô lập cao độ kẻ thù, làm suy yếu chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, làm cho nhân dân ta thêm bạn bớt thù.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta mang đậm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã có những cống hiến lớn lao, góp phần phát triển phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, cho quyền được sống và mưu cầu tự do, hạnh phúc cho mỗi dân tộc và mỗi con người. Đồng thời làm rõ ý nghĩa thực tiễn và cấp bách trong việc khẳng định tính chân lý và tất thắng của con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn cho dân tộc ta, vạch trần sự xuyên tạc, bóp méo tính nhân văn cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước của nhân dân ta do Người và Đảng ta lãnh đạo.
NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
1. Nguồn gốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Tư tưởng nhân văn (hay chủ nghĩa nhân văn) là một khái niệm để chỉ giá trị, tinh thần chung của nhân loại. Trong cuộc sống, con người luôn có khát vọng vươn tới cái đẹp, muốn được tự do và hạnh phúc. Song điều đó lại bị chi phối bởi điều kiện lịch sử, chính trị - xã hội của từng quốc gia (dân tộc), của từng thời đại. Hơn nữa, tư tưởng nhân văn là vấn đề về con ngườì, mà con người lại là trung tâm của mọi thời đại. Các giai cấp khác nhau giải quyết về vấn đề con người khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, tư tưởng nhân văn là hệ thống quan điểm lý luận về con người theo nghĩa rộng. Xuất phát từ sự tôn trọng giá trị nhân phẩm con người, thương yêu con người, tin vào sức sáng tạo vô biên của con người, coi quyền của con người được phát triển tự do, hạnh phúc và lợi ích của con người là tiêu chuẩn đánh giá các quan hệ xã hội, tư tưởng nhân văn, nhất là tư tưởng nhân văn cộng sản, chủ trương phát triển mọi khả năng của con người và xã hội, thừa nhận các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo trong quan hệ giữa con người với nhau.
Thực ra, khái niệm tư tưởng nhân văn không phải đã có ngay từ buổi bình minh của loài người. Lúc bấy giờ, con người còn sống thành bầy đàn rồi sau đó thành thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Mọi người sống, lao động tự nguyện theo chế độ tập thể. Mọi thành viên gái cũng như trai đều có quyền bình đẳng như nhau. Xã hội càng phát triển, con người càng bị phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Đời sống vật chất - tinh thần giữa các tầng lớp dân cư càng cách xa nhau, giai cấp ra đời: kẻ đi áp bức bóc lột và người bị áp bức bóc lột. "Xã hội văn minh" đã xuất hiện với những nghịch cảnh, kể thì hưởng thụ phè phỡn, người thị quằn quại trong đói rét, chết chóc.
Cùng với cuộc đấu tranh để chinh phục tự nhiên trong lao động sản xuất, con người lại phải đương đầu với các cuộc xung đột xã hội giữa kẻ đi áp bức, bóc lột với người bị áp ức, bóc lột. Tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người đối với cuộc sống và xã hội in đậm dấu ấn giai cấp (địa vị xã hội) và biến đổi không ngừng trong cuộc đấu tranh giai cấp triền miên đó. Cũng từ đây trong nhân dân lao động thưòng nảy sinh những ước muốn giải phóng mọi nỗi khổ đau đè nặng lên mình, cùng những ước mơ về một xã hội lý tưởng, vua thánh tôi hiền, mọi người sống với nhau hoà thuận, gần gũi thương yêu, đoàn kết giúp đỡ nhau.
Những khát vọng về cuộc sống tự do và hạnh phúc như vậy của con người, khi con người đã đạt đến một cuộc sống vật chất nhất định, có một trình độ tư duy nào đó đủ nhận thức về vai trò và giá trị của con người, trở thành những giá trị nhân văn. Và như chúng ta đều biết, kể từ khi xã hội có giai cấp, các giá trị nhân văn ấy trước hết và cơ bản là của nhân dân lao động, của tầng lớp người bị áp bức, bóc lột.
Tuy nhiên, chúng ta không hoàn toàn phủ nhận những nhân vật cá biệt trong các giai cấp bóc lột cũng biểu thị lòng thương yêu con người, nhiều khi rất sâu đậm và nồng hậu, tố cáo mãnh liệt xã hội đương thời và bệnh vực nhân dân lao động và những người bị áp bức bóc lột, cùng tiếng nói với nhân dân lao động. Nhưng đó chỉ là sự đồng cảm cảnh ngộ với người bị thống trị, bóc lột người nghèo, là thái độ đồng tình của kể đứng trên ngó xuống và mong ước cải thiện chính sách thống trị hà khắc của chế độ xã hội, chữ ít khi đòi lật đổi chế độ đương thời.
Khi xã hội tư bản ra đời, khái niệm tư tưởng nhân văn với tư cách là một trào lưu tư tưởng xã hội mới hoàn chỉnh những quan điểm triết học, chính trị, đạo đức lấy con người làm trung tâm.
Khác với chế độ phong kiến, khi thế giới tinh thần do tôn giáo thống trị coi con người trước hết là một sinh vật tinh thần, khuyên con người cam chịu mọi thiếu thốn và đau khổ về thể xác ở trần thế để hy vọng một tương lai thanh thản, hạnh phúc ở thiên đường hư ảo - thì khuynh hướng mới của xã hội tư bản chủ nghĩa đòi phải trả lại con người cho tự nhiên để tự do phát triển, coi việc tận hưởng mọi hạnh phúc trần tục là sự phát triển toàn diện của tính người.
Biểu thị ý muốn hiểu biết và sáng tạo; khát vọng chân lý và tự do; sự công bằng, bình đẳng và bác ái; lòng tin ở con người, tư tưởng nhân văn tư sản buổi hưng thịnh phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động đã góp phần giải phóng sức sản xuất, phát triển văn hoá, khoa học, tạo điều kiện cho sự tiến bộ xã hội.
Nhưng tư tưởng nhân văn tư sản dần dần bị bộc lộ những hạn chế không thể khắc phục bởi quan hệ sản xuất tư hữu tư bản và chủ nghĩa cá nhân tư sản. Con người mà tư tưởng nhân văn tư sản tôn thờ, đặt vào vị trí trung tâm chính là con người tư sản. Đó là con người ích kỷ, ngày càng thoái hoá sa đoạ trong cái xã hội mà mọi giá trị đều đo bằng lợi nhuận và tiền bạc.
Tư tưởng nhân văn tư sản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc chủ yếu là phản ánh sự bóc lột nhân dân lao động, cá lớn nuốt cá bé, cướp bóc, thôn tính xâm lược các quốc gia dân tộc khác. Nó sản sinh ra nhiều thứ "lý luận về con người" chống lại con người hoặc làm cho con người càng mất tin tưởng ở con người, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc là thủ đoạn chính của những tội ác vô nhân đạo, phản nhân văn trên quy mô ngày càng lớn đối với các dân tộc, con người và loài người tiến bộ mà ai cũng biết; là kẻ gây ra các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia dân tộc phục thuộc, là hai cuộc chiến tranh thế giới nhằm chia lại quyền lợi của chúng. Tư tưởng nhân văn tư sản thực chất chỉ là chủ nghĩa cá nhân tư sản, là cái "đạo làm người" của giai cấp tư sản chà đạp lên quyền sống của đông đảo nhân dân lao động.
Đối lập với tư tưởng nhân văn tư sản (phản nhân văn) là tư tưởng nhân văn cộng sản. Từ khi những "bóng ma cộng sản" ra đời, nhất là từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại giành được thắng lợi, tạo nên bước ngoặt lịch sử đối với loài người, tư tưởng nhân văn cộng sản xuất hiện và phát triển, phản ánh quyền lợi và những giá trị tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở quan điểm cho rằng, bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, do vậy, muốn giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát triển hoàn mỹ phải thay đổi những quan hệ kìm hãm, trói buộc con người. Nghĩa là xoá bỏ quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị, xoá bỏ quan hệ người bóc lột người, thiểu số thống trị đa số; tạo lập quan hệ bình đẳng, tự do giữa con người với con người, tạo lập hệ thống những quan hệ xã hội mới tốt đẹp. Trong toàn bộ các quan hệ xã hội ấy, quan hệ sản xuất giữ vị trí chi phối. Nó là quan hệ kinh tế cơ bản của hình thái xã hội. Muốn xoá bỏ quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế, những điều kiện kinh tế - xã hội của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trói buộc, kìm hãm sự phát triển của con người thì phải làm cách mạng, phải có cương lĩnh cách mạng và khoa học nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế bóc lột, thống trị của thiểu số tư sản để giải phóng con người, thật sự làm cho hoàn cảnh hợp với tính người.
Trong xã hội tư sản, lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư hữu tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc của mọi sự đau khổ của người lao động - là giai cấp công nhân cách mạng. Chỉ có họ mới làm được cuộc cách mạng vì lợi ích của chính mình và cũng vì lợi ích của tất cả mọi người lao động trong xã hội, của toàn nhân loại và xây dựng một xã hội mới, trong đó sự tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự tự do phát triển của tất cả mọi người. Đó chính là tư tưởng nhân văn cách mạng, tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp công nhân của những người cộng sản, là đỉnh cao của tư tưởng nhân văn hiện nay trong xã hội hiện đại.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn cộng sản được vận dụng vào điều kiện của dân tộc Việt Nam: một dân tộc bị thực dân, đế quốc đô hộ phải đứng lên để tự giải phóng mình không thể không kế thừa những giá trị đó.
Để xác định bản chất, nội dung của một tư tưởng, một sự vật hay hiện tượng nào đó của tự nhiên hay xã hội, cần nắm vững nguồn gốc của nó. Trên đây chúng tôi đã phác hoạ một số điểm chính của quá trình phát triển tư tưởng nhân văn trong lịch sử mà tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thạc dòng tư tưởng nhân văn cách mạng, tư tưởng nhân văn cộng sản nhằm làm sáng tỏ phần nào nguồn gốc tư tưởng nhân văn của Người.
Tuynhiên, sẽ không đầy đủ nếu không kể đến những yếu tố sau đây trong nguồn tốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Một là, lòng nhân ái trong đời sống của gia đình và quê hương.
Từ buổi đầu thiếu thời, Nguyễn Sinh Cung - Hồ Chí Minh đã sống trong một gia đình nhà nho nghèo, mọi người đều có lòng nhân ái, thương người, thương dân, yêu nước, có tâm huyết với nền độc lập, tự do của dân tộc, không chịu khuất phục chế độ thống trị bóc lột, áp bức của bọn phong kiến và thực dân.
Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với Người là thân mẫu và thân phụ.
Bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Hồ Chí Minh là người phụ nữ nông thôn cần mẫn, đảm đang, thương yêu chồng con vô hạn, nhân hậu với bà con làng xóm. Những đức tính quý báu đó của bà đã có tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng quyết định đến tâm hồn đa cảm, giàu tình thương người của Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh), có thể nói đó là những sợi tơ dệt nên nhân cách của Người thời thơ ấu.
Ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chí Minh đã thể hiện một quan diểm yêu nước, thương dân sâu sắc. Tuy học rộng, hiểu biết nhiều, đã đỗ đạt cao (phó bảng) nhưng ông từ chối ra làm quan vì triều đình phong kiến làm tay sai cho giặc. Khi bị thực dân thúc ép nhiều lần buộc phải ra làm quan ông tìm cách không hợp tác với bọn họ. Ông thường nói: quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn. Cũng như một số nhà nho tiến bộ, quan điểm "trung quân ái quốc" của ông đã đổi khác. Ông phủ nhận thuyết trung quân của nhà nho và cho rằng trung quân bây giờ không phải mù quáng phục tùng triều đình phong kiến mà phải thương dân, ái quốc là ái dân, ông hô hào cải cách duy tân, chủ trương lấy dân chúng làm hậu thuẫn cho các phong trào cải cách chính trị xã hội. Và có lòng nhân ái, thương dân thực sự, khi ra làm quan ông luôn đứng về phía nhân dân, che chở người nghèo, trừng trị bọn hách dịch và nhữhg tên sâu mọt áp bức dân lành.
Dù ở đâu, bất cứ ở cương vị nào, ông vẫn thông cảm với dân nghèo, luôn giành những tình cảm ưu ái nhất cho những trẻ mồ côi, cho những gia đình gặp cảnh éo le, neo đơn, góa bụa, cho những người bị bọn địa chủ, phong kiến và thực dân, đế quốc đẩy vào điêu đứng, khổ ải, lầm than.
Chính tấm lòng thương dân, thương người nghèo khổ và thái độ căm ghét thực dân phong kiến của ông đã nhen nhóm ngọn lửa yêu nước, tình thương đồng bào bị đọa đày trong tâm hồn trẻ tuổi của Nguyễn Tất Thành.
Ảnh hưởng của ông đối với Hồ Chí Minh không chỉ ở tầm lòng thương dân, yêu nước mà điều quan trọng hơn là ông đã hướng cho các con mình trong đó có Người vào con đường lao động và học tập để biết "đạo lý làm người".
Điều thức thời nhất của ông Nguyễn Sinh Sắc là đã hướng cho các con mình chuyển từ học Hán văn sang học Pháp văn và tạo những điều kiện cần thiết để Nguyễn Tất Thành đi theo con đường, tiếp xúc với nền văn minh mới trên con đường cứu nước, cứu dân sau nay.
Quê hương Nghệ Tĩnh là một vùng quê nghèo khổ vì thiên tai khắc nghiệt đối với con người. Đây là cái túi của lụt lội, bão tố và gió Lào của miền Trung bộ Việt Nam. Người dân xứ Nghệ luôn phải vật lộn, chiến đấu gian khổ với thiên nhiên. Họ cần cù lao động, thức khuya dậy sớm, một nắng hai sương mới biến sỏi đá thành cơm. Từ xa xưa trong lịch sử, Nghệ Tĩnh đã từng là chiến trường chống các loại giặc ngoại xâm và các cuộc nội chiến do các tập đoàn phong kiến gây ra. Vào đầu thế kỷ này, cũng như nhiều vùng nông thôn khác trên đất nước ta, Nghệ Tĩnh chịu sự áp bức, bóc lột rất hà khắc của bọn thực dân phong kiến. Đời sống kinh tế - xã hội càng trở nên cực khổ hơn.
Trong cuộc vật lộn với thiên tai và địch họa người dân xứ Nghệ sớm biết yêu thương, đùm bọc, hợp quần, cấu kết với nhau và kiên cường đấu tranh để giữ vững sự tồn tại của mình. Tình thương yêu, lòng vị tha, sẵn sàng hy sinh cho người khác, cho gia đình, làng xóm, phản ánh mối quan hệ đời sống cộng đồng đó của quê hương đã góp phần tạo nên trong con người Bác tình cảm yêu người lao động, coi trọng tình làng nghĩa xóm, sống với nhau có tình có nghĩa và những đức tính tốt đẹp khác.
Hồ Chí Minh thời niên thiếu đã khâm phục tinh thần chống giặc Pháp của các khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng, đã thấm thía nỗi lo nước thương dân của các bậc cha chú như Vương thúc Quí, Phan Bội Châu... Những tầm gương nghĩa liệt của họ đã hun đúc từ buổi bình minh của Bác Hồ lòng yêu nước thiết tha và chí hướng đi tìm con đường cứu dân, cứu nước sau này.
Nghệ Tính còn là một vùng có nhiều di tích lịch sử và nhân vật lịch sử của hầu hết các triều đại. Đây cũng là xứ sở của nền văn hoá độc đáo, là đất khoa bảng, sĩ phu, là quê hương của hát dặm, hát phường vải, phường nón và thơ ca, từ ca vè dân gian đến những vần thơ mang nặng tình người của Nguyễn Du, những câu thơ "dậy sóng" của Phan Bội Châu phản ánh khát vọng độc lập tự do và ý chí đấu tranh chống cường bạo của quần chúng nhân dân. Môi trường lịch sử văn hoá đó đã nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Sinh Cung càng giàu thêm tình người, tình thân ái và lòng yêu quê hương đất nước.
Cần khẳng định rằng, đời sống đầy lòng nhân ái của gia đình và quê hương xứ Nghệ đã nhen nhóm trong Nguyễn Tất Thành những tình cảm thương người, thương dân, yên nước để sau này rực sáng thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Hai là, truyền thống nhân ái
Đến tuổi trưởng thành, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh vượt lũy tre làng, ra bắc vào nam, mở rộng tầm nhìn, tiếp nhận nhiều giá trị tinh thần quý báu của dân tộc, tiêu biểu là lòng yên nước, tinh thần quật cường của nhân dân ta và truyền thống nhân ái sâu bền của dân tộc Việt Nam được kết tinh từ hàng nghìn năm nay.
Tư tưởng nhân văn Việt Nam, tiêu biểu là lòng nhân ái, là giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam; lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân, coi người ta là hoa của đất... truyền thống nhân ái đó được nảy sinh từ đời sống cố kết cộng đồng lâu đời của dân tộc ta trong lao động sản xuất, đấu tranh chống thiên tai địch hoạ. Từ xa xưa, dân tộc ta chủ yếu sống trên các lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam. Đây là vùng đất phì nhiêu, màu mỡ, nhưng là vùng nhiều bão lụt dữ dội. Các trận lụt lớn làm chết người, xóm làng xơ xác tiêu điều. Còn bão thì phá hoại mùa màng, đưa nước mặn vào ruộng, làm sập nhà đổ cây. Đó là mối đe doạ thường xuyên đối với nhân dân ta. Mặt khác, để phát triển sản xuất, khắc phục thiên tai, công tác trị thuỷ đóng vai trò hết sức quan trọng. Muốn vậy, con người Việt Nam từ xa xưa đã hiệp tác rộng rãi và lâu dài không chỉ trong một làng mà nhiều làng, không chỉ một vùng mà nhiều vùng để đắp đê chống lũ, ngăn nước mặn vào ruộng...
Lịch sử mở nước của dân tộc ta gắn với công cuộc khai hoang lấn biển, lập làng, cải tạo đất thau chua rửa mặn. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và những thử thách ngặt nghèo của cuộc sống đã làm nảy sinh trong mỗi người dân Việt Nam ý thức thương yêu, đùm bọc, liên kết hiệp đoàn, chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ để duy trì sự tồn tại và phát triển đất nước, xóm làng quê hương. Tình cảm tốt đẹp đó ngày càng phát triển, trở thành một lối sống vị tha, nhân ái của dân tộc, lối sống "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng".
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta đã phải liên tiếp đương đầu trực diện nhiều đội quân xâm lược. Nhân dân ta đã sống trong kiếp nô lệ dưới ách thống trị nghìn năm của phong kiến phương bắc và gần trăm năm của thực dân, đế quốc. Chính sách bóc lột, thống trị tàn bạo và hung ác của quân xâm lược, sự bóc lột thậm tệ của bọn vua, quan phong kiến, địa chủ và cảnh nội chiến "nồi da nấu thịt" của các tập đoàn phong kiến giành quyền bính đã đẩy nhân dân ta, dân tộc ta đến bờ vực của sự diệt vong. Có áp bức thì có đấu tranh. Khi bị tước hết mọi quyền sống, bị đẩy vào cảnh đói nghèo, lầm than, bị chà đạp thể xác, bị vùi dập về tinh thần nhân dân lao động nước ta từ xưa đến nay đã không chỉ than thân trách phận mà đã đoàn kết đứng lên đấu tranh giành quyền sống, quyền độc lập, tự do cho dân tộc và đất nước mình. Nhân dân ta hiểu rất rõ rằng quyền sống của mình trước hết là sự mất còn của cộng đồng dân tộc, của mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên. Vì thế đối với dân tộc ta, đạo lý làm người là phải xả thân vì tình làng nghĩa nước. Yêu nước là phải cứu nước, là nhân đạo, thương người và muốn nhân đạo, thương người phải yêu nước và cứu nước. Yêu nước, thưong nòi gắn bó chặt chẽ không thể cắt rời trong khái niệm nhân ái của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Một nét đặc trưng của lòng nhân ái Việt Nam là lấy thiện trị ác, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo, là đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại. Nét đặc trưng đó chứa đựng lòng khoan dung độ lượng, một nội dung nhân văn cao cả của dân tộc ta. Rất đáng tự hào, một dân tộc chịu nhiều đau khổ, mất mát do chiến tranh gây ra, một dân tộc đã lập nhiều chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm, dập tắt nhiều cuồng vọng của những tên đế quốc hùng mạnh nhưng lại là một dân tộc rất yêu hoà bình, nhân ái, một dân tộc rất đỗi nhân hậu, khoan hoà, không hề say máu, không nuôi hận thù.
Điều đó được thể hiện ở ý chí hoà bình mãnh liệt vang lên từ rất lớn trong đời sống của dân tộc ta. Nhiều người Việt Nam biết chuyện Thạch Sanh tài trí và nhân hậu xua tan quân xâm lược chỉ bằng tiếng đàn thần và khi chúng chịu lui quân đã sẵn lòng đãi chúng một bữa cơm no nê bằng chiếc niêu kỳ diệu đã phản ánh tinh thần yêu chuộng hoà bình, truyền thống nhân ái, nhân văn của dân tộc Việt Nam. Các vị chiến tướng đời Lý từng nói: "Chỉ có cái ý chí phân biệt quốc thổ chứ không phân biệt chúng dân, phải quét sạch cái bản thỉu, hôi tanh để ca thuở đẹp, hướng hội lành... Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân... Chớ có mang lòng sợ hãi" [21]. Vua tôi nhà Trần, nhà Lê đánh thắng giặc vẫn mở lượng hiếu sinh, chẳng những để cho địch rút lui an toàn về nước mà còn cấp cho chúng lương thực, thuyền và ngựa, một cử chỉ cao thượng tuyệt vời. Sau đó ba thế kỷ ý chí ấy lại một lần nữa vang vọng trong lời hịch của Tây Sơn: "Một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đá gần"[21].
Lòng nhân ái Việt Nam, bên cạnh sự yêu mến nhân dân mì