Hy lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại, l à thời kì
phát triển rực rỡ của x ã hội loài người. Hy lạp cổ đại không chỉ l à một trung tâm
kinh tế -xã hội mà còn là một trung tâm văn hoá. Thời k ì cổ đại ở đây đ ã tích trữ
được một khối l ượng tri thức khổng lồ tr ên nhiều lĩnh vực: toán học, vật lý, thi ên
văn học, thuỷ văn. đặc biệt không thể không nhắc tới chính l à triết học. Triết học
thời kì này được đánh giá l à rất phát triển, với những cái tên hết sức nổi tiếng :
Acsimet, Thales, Héraclite, Platon, Aristote Chính các đại biểu này đã tạo lên
một nền triết học p hát triển rực rỡ mà ngày nay chúng ta đ ã được thừa hưởng.
Nổi bật lên giữa các nhà triết học lỗi lạc l à một triết gia với rất nhiều phát minh m à
phải đến hàng ngàn năm sau, khoa h ọc mới có thể chứng minh được. Đó là nhà triết
học Démocrite . Ông đ ã để lại cho nhân lo ại rất nhiều công tr ình vĩ đại cũng nh ư tầm
ảnh hưởng lớn đến các nh à triết học sau n ày
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2239 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng triết học của démocrite và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TP HOÀ CHÍ MINH
KHOA ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
NGAØNH QUAÛN TRÒ KINH DOANH
BAÙO CAÙO TIEÅU LUAÄN MOÂN TRIEÁT HOÏC
Ñeà taøi:
TÖ TÖÔÛNG TRIEÁT HOÏC CUÛA DEÙMOCRITE VAØ
SÖÏ AÛNH HÖÔÛNG CUÛA NOÙ ÑEÁN ÑÔØI SOÁNG
VAÊN HOÙA TINH THAÀN CUÛA THÔØI ÑAÏI
GVHD : TS. BUØI VAÊN MÖA
SVTH : TRAÀN MINH HIEÁU
STT : 107
LÔÙP : CAO HOÏC D1 K19
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
I. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC THỜI KỲ HY LẠP CỔ ĐẠI [1] .........................2
II. TIỂU SỬ CỦA NHÀ TRIẾT GIA DÉMOCRITE [2] ...........................................4
III. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DÉMOCRITE [2], [3], [4], [5] .......................6
III.1 Thuyết nguyên tử ..........................................................................................6
III.2 Tư tưởng Démocrite về chân không ............................................................... 8
III.3 Lý luận về nhận thức .....................................................................................8
III.4 Tất yếu và ngẫu nhiên..................................................................................10
III.5 Quan niệm về con người..............................................................................11
III.6 Quan điểm về logic học ...............................................................................11
III.7 Quan điểm về hạnh phúc .............................................................................12
III.8 Quan điểm đạo đức – chính trị – xã hội .......................................................12
III.9 Quan điểm về các giấc mơ...........................................................................14
III.10 Quan điểm về ánh sáng ............................................................................14
IV. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC DÉMOCRITE ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA TINH THẦN CỦA THỜI ĐẠI [6], [7] ............................................................. 15
IV.1 Về khoa học tự nhiên ...............................................................................15
IV.2 Về nhân cách ........................................................................................... 18
V. KẾT LUẬN ....................................................................................................19
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................20
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Hy lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại, l à thời kì
phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Hy lạp cổ đại không chỉ là một trung tâm
kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm văn hoá. Thời kì cổ đại ở đây đã tích trữ
được một khối lượng tri thức khổng lồ trên nhiều lĩnh vực: toán học, vật lý, thi ên
văn học, thuỷ văn... đặc biệt không thể không nhắc tới chính l à triết học. Triết học
thời kì này được đánh giá là rất phát triển, với những cái tên hết sức nổi tiếng:
Acsimet, Thales, Héraclite, Platon, Aristote… Chính các đại biểu này đã tạo lên
một nền triết học phát triển rực rỡ mà ngày nay chúng ta đã được thừa hưởng.
Nổi bật lên giữa các nhà triết học lỗi lạc là một triết gia với rất nhiều phát minh m à
phải đến hàng ngàn năm sau, khoa học mới có thể chứng minh được. Đó là nhà triết
học Démocrite. Ông đã để lại cho nhân loại rất nhiều công trình vĩ đại cũng như tầm
ảnh hưởng lớn đến các nhà triết học sau này.
Thực hiện: Trần Minh Hiếu – K19D1 Trang 1
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DÉMOCRITE
VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA THỜI ĐẠI
I. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC THỜI KỲ HY LẠP CỔ
ĐẠI [1]
Hy Lạp cổ đại là một vùng đất vô cùng rộng lớn, thiên nhiên ban cho đất nước Hy
Lạp một vị trí vô cùng thuận lợi. Khí hậu, đất đai, biển cả v à lòng nhiệt thành của
con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối
giao bang và phát triển kinh tế.
Vào thế kỷ XV cho đến thế kỷ IX Tr.CN, xu h ướng chuyển sang chế độ chiếm hữu
nô lệ đã hiện dần và ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp, thủ
công nghiệp từ cuối thế kỷ thứ VII Tr.CN l à lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn
bán, giao lưu trong khu vực, đẫn đến sự ra đời các thành bang (polis) và các trung
tâm văn hóa như Athène, Sparte, Thebes,...
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhi ên mà là kết quả tất
yếu của việc kế thừa những di sản tinh t úy của truyền thống trong sáng tác dân gian,
trong thần thoại, trong các hình thái sinh hoạt tôn giáo, trong các mầm mống của tri
thức khoa học và là kết quả của đời sống kinh tế xã hội.
Đứng trước thế giới bao la và đầy bí ẩn với tư duy non trẻ của mình, con người
không thể có được lời giải đáp thuyết phục. V ì vậy, con người phải viện dẫn đến
năng lực tưởng tượng để diễn giải những kỳ bí của thi ên nhiên. Thần thoại trở thành
sự đối diện đầu tiên của con người với tự nhiên.
Sự xuất hiện của các nhà triết học đầu tiên đã làm thành bước rẽ trong phát triển của
thần thoại. Những viễn cảnh bóng bẩy do t ư duy của con người tạo ra đã bớt đi sự
hấp dẫn trong khi những nhu cầu của đời sống th ường nhật đã trở nên bức bách đòi
hỏi phải được cắt nghĩa bằng tri thức chân thực. Niềm tin chất phác, ngây th ơ vào
sự tồn tại của thần thánh đã được thay thế bằng những luận giải sâu sắc của lý tính,
của sự thông thái. Đó là lý do vì sao các nhà triết học được gọi là những người yêu
mến sự thông thái.
Vào thế kỷ IX cho đến thế kỷ VII Tr.CN, đó là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại
đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Bằng chất liệu sắt, ng ười Hy Lạp đã đóng được những
chiếc thuyền lớn cho phép họ vượt biển Địa Trung Hải để tìm kiếm những miền đất
mới. Nhờ đó mà lãnh thổ Hy Lạp được mở rộng.
Thực hiện: Trần Minh Hiếu – K19D1 Trang 2
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
Do như cầu mua bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến các nước
phương Đông đã trở nên thường xuyên. Khi những con thuyền tung mình lướt sóng
thì tầm nhìn của những người Hy Lạp cổ đại cũng được mở rộng, các thành tựu văn
hóa của Ai Cập, Babylon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Những tinh hoa về
toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp,... và cả những yếu tố
huyền học cũng được người Hy Lạp đón nhận. Các nhà triết học đầu tiên của Hy
Lạp thường là người đã nhiều lần du lịch sang phương Đông, hoặc sinh ở khu vực
cận Đông như Thales, Hy Lông, Pit-tax, Sôlông,...
Tuy vậy không nên hiểu một cách đơn giản triết học Hy Lạp chỉ là sự kế thừa thuần
túy những tư tưởng ở bên ngoài mà điều kiện quyết định sự hình thành và phát triển
của triết học Hy Lạp là kết quả nội sinh tất yếu của cả một dân tộc, một thời đại.
Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại đ ược chia làm ba thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Socrate: bước đầu lý giải những vấn đề của t ư duy và
tồn tại vì vậy chưa thoát khỏi sự ảnh hưởng của thần thoại và tôn giáo. Các
trường phái tiêu biểu là Milet, Pythagore, Héraclite, ... Các nhà triết học
đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên
- Triết học thời kỳ Socrate: tư tưởng chính của triết học thời kỳ n ày là triết học
phải xuất phát tự con người. Cùng với Pythagore – người đã khẳng định:
”Con người – thước đo của vạn vật”, Socrate đã tấu lên bài ca về con người.
Đây là thời kỳ của những triết học gia lừng danh, l àm rạng rỡ nền văn hóa
Hy Lạp như Platon, Aristote, Démocrite,... và tất nhiên không thể thiếu
Socrate.
- Thời kỳ Hy Lạp hóa: triết học của thời kỳ n ày không còn sôi nổi như thời kỳ
trước. Các triết gia bàng quan, lảng tránh những vấn đề trung tâm của triết
học mà hướng vào thế giới bên trong, chìm đắm với những suy tư về định
mệnh, ngập chìm trong đời sống tình cảm, những ham muốn...
Thực hiện: Trần Minh Hiếu – K19D1 Trang 3
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
II. TIỂU SỬ CỦA NHÀ TRIẾT GIA DÉMOCRITE [2]
Démocrite (Đềmôcrít) (khoảng 460 – khoảng 370 TCN) là một triết gia lỗi lạc của
nền văn minh cổ Hy Lạp. Ông sinh trưởng ở Abdere (Apđerơ), một trung tâm buôn
bán sầm uất của Hy Lạp cổ đại ở xứ Thrace (Tơraxia) (phần đất thuộc Hy Lạp và
Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), ven bờ phía Bắc của biển Égée (Êgiê) trong một gia đình
giàu có.
Ông là học trò của triết gia Leucippe (Lơxíp) và đã cùng với Leucippe tạo ra thuyết
nguyên tử (atomism); các học giả thời nay gọi đó l à thuyết ‘nguyên tử thô sơ’
Sinh thời Démocrite từng từ bỏ cuộc sống giàu sang, chu du khắp nơi, có mặt ở Ai
Cập, Ba Tư, tranh luận với các giáo sĩ Đạo Hồi, đàm đạo với các triết gia khổ hạnh
Ấn Độ. Tiếp thu nhiều kiến thức bổ ích về toán học, thiên văn học và triết học. Trở
lại Hy lạp, Ông đến Anaxagore gặp gỡ Socrate, nhưng không tán thành quan điểm
của ai cả.
Tác phẩm quan trọng và cũng rất có giá trị về khoa học mà ông đã viết ra là “Cấu
trúc vĩ đại của thế giới”. Nhưng tiếc rằng, sau này người ta chỉ có thể phỏng đoán
lại được nội dung của cuốn sách này mà thôi. Vì ngay trong khi ông còn đang sống,
thì các tác phẩm do ông viết ra đã bị các học sinh của nhà triết học đối lập Platon
(Pla-tông) phá hủy theo yêu cầu của thầy mình và cuốn sách trên cũng không tránh
được số phận nghiệt ngã đó. Thật là bất hạnh cho riêng ông và cũng là một tổn thất
nặng nề vô giá cho cả sự tiến bộ của nền khoa học chân chính của nhân loại.
May mắn làm sao, sau này, nhà triết học Diogène Laerce (Điôgen Laecxơ) (sống
vào nửa đầu thế kỉ thứ III sau công nguy ên) đã viết lại được những quan điểm về vũ
Thực hiện: Trần Minh Hiếu – K19D1 Trang 4
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
trụ của Démocrite trong bộ sách lớn gồm 10 tập của mình “Tiểu sử các nhà triết
học”. Diogène Laerce gọi ông là nhà triết học lỗi lạc, Aristote coi ông l à người điều
khiển được tư duy của mình trên mọi lĩnh vực. Marx – Anghen thừa nhận ông là bộ
óc bách khoa đầu tiên trong những người Hy Lạp.
Démocrite là người đầu tiên giải thích cơ cấu của tự nhiên là nguyên tử. Theo ông
đó là những hạt nhỏ mà mắt người không thấy được, không thể phân chia được nữa
và sự vận động của các hạt là sự vận động của tự nhiên. Ông nói rằng mọi hiện
tượng trong vũ trụ đều là kết quả do sức hấp dẫn của các nguy ên tử ảnh hưởng lẫn
nhau mà sinh ra. Ông cho rằng mọi biến động trong thế giới vật chất đều l à những
hiện tượng tự nhiên và hợp với quy luật. Bức tranh mô tả sự hình thành và phát
triển Vũ trụ của Démocrite có rất nhiều nét chung với ý tưởng được Kant (Căng) và
Laplace (Laplaxơ) nêu ra sau hai nghìn năm sau.
Ông còn đưa ra một loạt các dự đoán thiên tài và lỗi lạc vào lúc mà khoa học thực
nghiệm còn quá mờ nhạt, phải chờ nhiều trăm năm sau nữa mới đ ược chứng thực.
Theo suy luận của ông thì kích thước thực của Mặt Trời lớn hơn Trái Đất rất nhiều
lần (trên thực tế, bán kính của Mặt Trời lớn h ơn Trái Đất khoảng 109 lần). Mặt
Trăng thực ra là một thiên thể không tự mình phát sáng, nó chỉ phản xạ lại ánh sáng
của Mặt Trời mà thôi. Còn dải Ngân Hà mờ sáng vắt ngang trên bầu trời chính là
một quần thể sao rất lớn (theo dự đoán hiện nay có khoảng h ơn 100 tỉ ngôi sao)
Démocrite đã áp dụng học thuyết nguyên tử của mình vào toán học. Ông cho rằng
mọi đại lượng hình học đều gồm những đại lượng - ban đầu là những "nguyên tử
hình học". Ông đã cống hiến cho lịch sử toán học một thành tựu to lớn khi là một
trong những người đầu tiên nghiên cứu vấn đề thể tích và chủ trương sử dụng một
phương pháp nghiên cứu toán học, mà sự phát triển tiếp theo của nó đã đưa đến việc
sáng lập lý thuyết các đại lượng vô cùng bé. Ông cũng là người đầu tiên chứng
minh thể tích hình tròn bằng 1/3 thể tích hình trụ có cũng đáy và chiều cao; thể tích
hình chop bằng 1/3 thể tích của lăng trụ có c ùng đáy và chiều cao.
Démocrite đã có nhiều công trình về khoa học tự nhiên. Luận văn "Về bản chất con
người của ông" có những kiến thức giải phẫu sinh lý con ng ười rất có giá trị. Ông
đã thu nhập được những tài liệu phong phú về động vật học và thực vật học. Ông
được Marx (Mác) và Ăngghen đánh giá là "trí tuệ vạn năng đầu tiên trong những
người Hy Lạp".
Démocrite là người không tin có thần thánh. Ông bác bỏ nguồn gốc thần thánh của
vũ trụ. Ông cho bản chất của vạn vậ t là các nguyên tử và các khoảng chân không.
Ông cho nguồn gốc của những quan niệm tôn giáo l à sự sợ hãi và dốt nát của con
người. Démocrite đã giải quyết được những thiếu sót của các nhà duy vật trước ông
và đã căn bản phê phán được học thuyết duy tâm cổ đại.
Thực hiện: Trần Minh Hiếu – K19D1 Trang 5
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
Trước những cảnh nhiễu nhương của cuộc đời, ông đã tự làm mù mắt mình bằng
cách đặt một lá chắn bằng đồng hướng ánh sang mặt trời lúc hoàng hôn chiếu vào
mắt. Cả đời ông sống trong túng bấn v à nghèo khổ.
III. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DÉMOCRITE [2], [3],
[4], [5]
Démocrite viết khoảng hơn 70 tác phẩm trên nhiều lĩnh vực khác nhau như bàn về
các vấn đề đạo đức, mỹ học, khoa học tự nhi ên, toán học, y học, kỹ thuật… Một số
tác phẩm còn lưu giữ lại những trích đoạn, như “về tự nhiên”, “về lý trí”, “về trạng
thái cân bằng của tinh thần”, “về bản tính con người”, “về hình học”, “về nhịp điệu
và hoà hợp”, “về thi ca”, “về hội hoạ”, “về binh nghiệp”, “khoa chữa bệnh”…
III.1 Thuyết nguyên tử
Cách đây hàng nghìn năm, các nhà hiền triết, các nhà Bác học từ Đông sang Tây đã
hằng cố gắng đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: vật chất cấu tạo nh ư thế nào, vạn vật
xung quanh ta thiên hình vạn trạng nhưng phải chăng đều do một số yếu tố nào đấy
cấu tạo nên.
Các triết gia thời trung Quốc Cổ đại đề xướng thuyết Âm Dương Ngũ hành (Kim,
Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ). Thời Ấn Độ Cổ đại có thuyết lôcaita cho rằng vạn vật đều
do bọn nguyên tố ban đầu là lửa, nước, không khí và đất cấu tạo nên. Các triết gia
thời Hy Lạp cổ đại mà người chủ trương một thuyết Héraclite (thế kỷ VI Trước
Công nguyên) cho rằng bản chất của thế giới là lửa. Anaximène (Anaximen), người
đồng thời với Héraclite, cho rằng bản chất của thế giới là không khí. Thalès (640 -
546 Tr. CN) được mệnh danh là một trong bấy "người hiền" thời Hy Lạp Cổ đại chủ
trương rằng bản chất của thế giới là nước. Ông lập luận nước đông lại thì thành chất
rắn, nước bốc hơi thì thành chất khí, tóm lại tất cả đều có căn nguy ên từ nước. Ông
còn nói: "Vũ trụ được nâng đỡ bởi nước, quả đất được mọng bởi nước, ngọn lửa
của mặt trời và các sao được nuôi dưỡng bởi thời bốc lên của nước".
Trong số các nhà triết học và khoa học thời xưa bàn về cấu tạo của vật chất, người
phát biểu đúng đắn hơn cả là nhà Bác học thời Hy Lạp cổ đại Démocrite.
Triết học của Démocrite là triết học duy vật và thuyết nguyên tử mà ông cùng
Leucipe sáng lập nên là nền tảng của triết học đó . Thuyết nguyên tử đã được
Leucipe nêu lên từ trước. Nhưng phải đến Démocrite học thuyết đó mới trở lên chặt
chẽ. Ông đã xây dựng quan điểm cơ bản mà theo đó tất cả sự vật được hình thành từ
những phần tử bé nhất, đơn giản, không phân chia, gọi là atomos (những nguyên
tử), và kènon (khoảng không).
Thực hiện: Trần Minh Hiếu – K19D1 Trang 6
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
Nguyên tử và khoảng không đối lập nhau: khoảng không thiếu một kết cấu bền
vững, tồn tại có tính chất bền vững; khoảng không thống nhất, đâu đâu cũng vậy,
tồn tại đa dạng, mỗi nơi một vẻ; khoảng không vô định, tồn tại xác định; khoảng
không bất động, tồn tại vận động. Tồn tại l à tổng thể số lượng lớn vô hạn những
nguyên tử cực bé, không phân chia, siêu cảm tính, không xuyên thấu, vĩnh cửu, bền
vững, bất biến. Sự thống nhất tồn tại và không tồn tại như những mặt đối lập tạo
nên cơ sở của mọi sự vật.
Ý tưởng táo bạo đó xuất phát từ chính những chiêm nghiệm về những hiện tượng
hàng ngày – sự đông đặc và nóng chảy, sự khác nhau về trọng lượng của các vật thể
cùng khối lượng…Có những biến đổi ta không thấy ngay đ ược, nhưng nó vẫn xảy
ra, không tức thời, mà từ từ, như hiện tượng ăn mòn, sự bốc hơi, sự phân hủy…Mắt
ta không thấy chúng, nhưng chúng vẫn hiện diện khắp nơi, quy định sự tồn tại của
thế giới này. Chúng – những cái bé nhất, không phân chia, không chuyển hoá v ào
nhau, không phẩm tính, khác nhau về hình dáng, kích thước, trật tự và vị trí. Tính
đa dạng của các nguyên tử là sự lý giải đầy đủ và xác đáng nhất tính đa dạng của
thế giới vật chất. Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học không so sánh nguy ên tử luận
của Démocrite với quan niệm về hành chất của Thales (nước), Anaximène (khí),
Héraclite (lửa), vì sự khác nhau giữa họ quá rõ ràng. Thời sơ khai Anaximandre
(Anaximanđơrơ) là người nêu ra quan điểm độc đáo nhất về bản nguyên (apeiron).
Apeiron thể hiện sự chuyển hoá không ngừng c ùa vũ trụ, nhưng hãy còn rất mơ hồ.
Ngược lại, nguyên tử của Démocrite là một yếu tố vật chất có tính quy định v à tính
tích cực nội tại. "Trong nguyên tử luận, chúng ta tìm thấy ngay quan điểm về tồn tại
tự nó của thế giới tự nhiên”.
Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nh ìn thấy được, không thể phân
chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn v à vận động
không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chú ng có mùi vị, âm thanh và
màu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết
hợp của chúng. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguy ên tử nên nếu tách rời
chúng ra thì vật thể bị tiêu diệt.
Theo ông toàn bộ sự vật trong thế giới kể cả linh hồn con người chỉ là các hạt
nguyên tử đang vận hành trong thế giới trống rỗng. Tất cả đều là sự vận hành của
nguyên tử. Những “hiện tượng” như xanh, đỏ hay ngọt chua, lạnh hay nóng đều chỉ
là cảm giác, là “ý kiến” của con người khi bị tác động lên. Trong thực tại các cảm
giác đó không hề tồn tại hiện hữu.
Một vật nặng là do có nhiều nguyên tử cấu kết lại, trong khi ở vật nhẹ, các nguy ên
tử được sắp xếp thưa thớt. Ông tin rằng các nguyên tử tuy có thành phần bên trong
là đồng nhất, song chúng có các đặc tính riêng của chính chúng về vị trí phân bố,
Thực hiện: Trần Minh Hiếu – K19D1 Trang 7
Tiểu luận Triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
hình dạng, kích thước; tất cả đều là những vật thể không gì có thể xuyên qua và vận
động liên tục trong không gian rỗng. Các nguy ên tử của nước có hình cầu, bề mặt
trơn nhẵn, không có khả năng gắn chặt vào nhau cho nên chúng có thể len lỏi qua
lại giữa chúng. Các nguyên tử tạo ra các chất rắn có dạng góc cạnh với nhiều các
khớp nên chúng có thể ghép nối chặt xít với nhau.
Tư tưởng triết học của Démocrite đã là tiền đề cho rất nhiều các lý thuyết p hát triển
rực rỡ sau này như các luận thuyết về sự tồn tại khách quan của vật chất v à vận
động, vật chất là vô cùng và vô tận cùng các học thuyết về nguyên tử, luật bảo tồn
năng lượng chi phối các vận động,….
III.2 Tư tưởng Démocrite về chân không
Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Démocrite, chân không cũng cần
thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các
nguyên tử thì sẽ không có điều kiện cho vận động. Khác với nguy ên tử có kích
thước, hình dáng, chân không thì vô hạn và không có hình dáng.
Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì
tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành
một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ
ra ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh,
kể cả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự
nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra.
Những phán đoán trên đây về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật chất
nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản chất của thế giới
là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Démocrite chưa giải thích
được nguyên nhân của vận động, nhưng ông đã gắn liền vận động với nguyên tử, và
nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử. Đó là một đóng góp hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của khoa học tự nhi ên và triết học duy vật. Chính vì quan niệm duy
vật và vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị